TIN TỨC VỀ THUẾ

Có 03 cách để người nộp thuế khai thuế điện tử

Có 03 cách để người nộp thuế khai thuế điện tử

Theo Thông tư số 66/2019/TT-BTC ngày 20/9/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 110/2015/TT-BTC ngày 28/07/2015 của Bộ Tài Chính hướng dẫn về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế, người nộp thuế có thể thực hiện khai thuế điện tử theo 03 cách.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Có 03 cách để người nộp thuế khai thuế điện tử

Thông tư số 66/2019/TT-BTC quy định, người nộp thuế thực hiện khai thuế điện tử theo một trong các cách sau:

Một là, khai thuế điện tử trực tuyến trên Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế: người nộp thuế truy cập Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; thực hiện khai thuế trực tuyến tại Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, ký điện tử và gửi hồ sơ khai thuế điện tử cho cơ quan thuế.

Hai là, khai thuế điện tử bằng các phần mềm, công cụ hỗ trợ khai thuế: người nộp thuế lập hồ sơ khai thuế điện tử bằng phần mềm, công cụ hỗ trợ đáp ứng chuẩn định dạng dữ liệu của cơ quan thuế; sau đó truy cập vào Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, ký điện tử và gửi hồ sơ khai thuế điện tử cho cơ quan thuế.

Ba là, khai thuế thông qua tổ chức cung cấp dịch vụ giá trị gia tăng về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế (T-VAN).

Thông tư số 66/2019/TT-BTC nêu rõ, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế gửi Thông báo tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử cho người nộp thuế chậm nhất 15 phút kể từ khi nhận được hồ sơ khai thuế điện tử của người nộp thuế.

Chậm nhất 01 ngày làm việc kể từ ngày ghi trên thông báo tiếp nhận nộp hồ sơ khai thuế điện tử, cơ quan Thuế gửi Thông báo chấp nhận/không chấp nhận hồ sơ khai thuế điện tử cho người nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế hoặc qua tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN.

Trường hợp cơ quan thuế chấp nhận hồ sơ khai thuế điện tử, ngày xác định hoàn thành nghĩa vụ nộp hồ sơ khai thuế điện tử là ngày ghi trên Thông báo tiếp nhận hồ sơ khai thuế điện tử đối với hồ sơ khai thuế đã được tiếp nhận lần đầu qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế hoặc qua tổ chức cung cấp dịch vụ T-VAN.

Trường hợp cơ quan Thuế không chấp nhận hồ sơ khai thuế, cơ quan Thuế gửi Thông báo không chấp nhận hồ sơ khai thuế điện tử cho người nộp thuế qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế, trong đó nêu rõ lý do.

Người nộp thuế được xác định là chưa hoàn thành nộp hồ sơ khai thuế trong trường hợp hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế theo quy định tại Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành, người nộp thuế không nộp lại hồ sơ khai thuế hoặc có nộp lại hồ sơ khai thuế nhưng không được cơ quan thuế chấp nhận.

Người nộp thuế thực hiện giải trình, bổ sung hồ sơ khai thuế, phản hồi các thông báo của cơ quan thuế bằng phương thức điện tử qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan Thuế hoặc nộp hồ sơ khai thuế bản Giấy tại trụ sở cơ quan

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Đã có hướng dẫn cụ thể về thực hiện hóa đơn điện tử

Đã có hướng dẫn cụ thể về thực hiện hóa đơn điện tử

Để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân thực hiện tốt các quy định về hóa đơn điện tử (HĐĐT), ngày 30/9/2019 Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 68/2019/TT-BTC (TT68) hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 119/2018/NĐ-CP, trong đó có nhiều điểm mới về lập và phát hành HĐĐT.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Đã có hướng dẫn cụ thể về thực hiện hóa đơn điện tử

HĐĐT không nhất thiết phải có chữ ký của người bán, người mua

Khái quát về những điểm mới tại TT68, đại diện Vụ Chính sách, Tổng cục Thuế cho biết, nội dung HĐĐT về cơ bản giống nội dung hóa đơn giấy và HĐĐT đã được hướng dẫn tại Thông tư số 39/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính, nhưng có bổ sung thêm chỉ tiêu: mã của cơ quan thuế đối với HĐĐT có mã của cơ quan thuế. Riêng ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn thực hiện theo hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 3 của TT68. Theo đó, ký hiệu mẫu số hóa đơn là ký tự có một chữ số tự nhiên là các số 1, 2, 3, 4 để phản ánh loại hóa đơn như hóa đơn GTGT; hóa đơn bán hàng; phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử; các loại hóa đơn khác là tem điện tử, vé điện tử, thẻ điện tử, phiếu thu điện tử hoặc các chứng từ điện tử có tên gọi khác, nhưng có nội dung của HĐĐT theo quy định. Về chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán, người mua trên HĐĐT, TT68 quy định, trường hợp người bán là DN, tổ chức thì chữ ký số của người bán trên hóa đơn là chữ ký số của DN, tổ chức; trường hợp người bán là cá nhân thì sử dụng chữ ký số của cá nhân hoặc người được ủy quyền. Một số trường hợp đặc thù trên HĐĐT không nhất thiết phải có chữ ký người bán. Trên HĐĐT cũng không nhất thiết phải có chữ ký điện tử của người mua, trừ trường hợp có thỏa thuận riêng giữa người bán và người mua. Thời điểm lập HĐĐT được xác định là thời điểm người bán ký số, ký điện tử trên hóa đơn được hiển thị theo định dạng ngày, tháng, năm và phù hợp với thời điểm lập HĐĐT. Ngoài ra, DN, tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh có thể tạo thêm thông tin về biểu trưng hay logo để thể hiện nhãn hiệu, thương hiệu hay hình ảnh đại diện của người bán. Đối với hoá đơn GTGT kiêm tờ khai hoàn thuế thực hiện theo hướng dẫn của Bộ Tài chính tại Thông tư số 72/2014/TT-BTC ngày 30/5/2014.

TT68 cũng hướng dẫn 7 trường hợp hóa đơn không nhất thiết phải có đầy đủ các nội dung đó là, HĐĐT bán hàng tại siêu thị, trung tâm thương mại mà người mua là cá nhân không kinh doanh; HĐĐT bán xăng dầu cho khách hàng là cá nhân không kinh doanh; HĐĐT là tem, vé, thẻ; chứng từ điện tử dịch vụ vận tải hàng không xuất qua website và hệ thống thương mại điện tử được lập theo thông lệ quốc tế cho người mua là cá nhân không kinh doanh được xác định là HĐĐT; hóa đơn của hoạt động xây dựng, lắp đặt; hoạt động xây nhà để bán có thu tiền theo tiến độ  hợp đồng; phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử; hóa đơn sử dụng cho thanh toán Interline giữa các hãng hàng không được lập theo quy định của hiệp hội vận tải hàng không quốc tế.

Các trường hợp rủi ro cao phải sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế

Theo TT68, các DN thuộc rủi ro cao về thuế (là DN có vốn chủ sở hữu dưới 15 tỷ đồng và có 8 dấu hiệu nêu tại Khoản 3 Điều 6 TT68), thì sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế trong 12 tháng hoạt động liên tục. Cơ quan thuế quản lý trực tiếp có trách nhiệm thông báo cho DN, tổ chức kinh tế thuộc loại rủi ro cao về thuế chuyển sang sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế. Sau thời gian 12 tháng, DN, tổ chức kinh tế nếu được xác định không rủi ro, đáp ứng được điều kiện sử dụng HĐĐT và có đề nghị sử dụng HĐĐT không có mã của cơ quan thuế thì thực hiện đăng ký sử dụng HĐĐT không có mã. TT68 cũng quy định, trường hợp xuất khẩu hàng hóa hay ủy thác xuất khẩu hàng hóa đều phải sử dụng hóa đơn GTGT điện tử hoặc hóa đơn bán hàng điện tử.

Điều 9 và Điều 15 TT68 quy định rõ, các trường hợp ngừng sử dụng HĐĐT có mã và HĐĐT không có mã bao gồm: DN, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh chấm dứt hiệu lực mã số thuế hoặc thuộc trường hợp cơ quan thuế xác minh và thông báo không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký; DN, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh thông báo với cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tạm ngừng kinh doanh; có thông báo của cơ quan thuế về việc ngừng sử dụng HĐĐT để thực hiện cưỡng chế nợ thuế.

Bên cạnh đó, TT68 nghiêm cấm các hành vi sử dụng HĐĐT để bán hàng nhập lậu, hàng cấm, hàng giả, hàng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ bị cơ quan chức năng phát hiện và thông báo cho cơ quan thuế; hành vi lập HĐĐT phục vụ mục đích bán khống hàng hóa, cung cấp dịch vụ để chiếm đoạt tiền của tổ chức, cá nhân bị cơ quan chức năng phát hiện và thông báo cho cơ quan thuế.

DN, tổ chức kinh tế, tổ chức khác, hộ, cá nhân kinh doanh thuộc trường hợp ngừng sử dụng hóa đơn được tiếp tục sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế hoặc HĐĐT không có mã sau khi thông báo với cơ quan thuế về việc tiếp tục kinh doanh, hoặc được cơ quan thuế khôi phục mã số thuế, được bãi bỏ quyết định cưỡng chế nợ thuế. Trường hợp tạm ngừng kinh doanh cần có HĐĐT giao cho người mua để thực hiện các hợp đồng đã ký trước ngày cơ quan thuế có thông báo tạm ngừng kinh doanh; đồng thời cần có văn bản thông báo với cơ quan thuế được tiếp tục sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế theo từng lần phát sinh.

Xử lý HĐĐT khi có sai sót

Tại Điều 11 và Điều 17 TT68 quy định, đối với HĐĐT có mã của cơ quan thuế chưa gửi cho người mua thì người bán thực hiện thông báo với cơ quan thuế theo mẫu số 04 phụ lục ban hành kèm theo Nghị định số 119/2018/NĐ-CP về việc hủy HĐĐT có mã đã lập có sai sót và lập HĐĐT mới, ký số, ký điện tử gửi cơ quan thuế để cấp mã hóa đơn mới, thay thế hóa đơn đã lập để gửi cho người mua. Cơ quan thuế thực hiện hủy HĐĐT đã được cấp mã có sai sót lưu trên hệ thống của cơ quan thuế.

Trường hợp HĐĐT có mã của cơ quan thuế hoặc chưa có mã của cơ quan thuế đã gửi cho người mua phát hiện có sai sót về tên, địa chỉ, nhưng không sai mã số thuế, các nội dung khác không sai sót, thì không phải lập hóa đơn thay thế. Trường hợp HĐĐT đã gửi có sai về mã số thuế, về số tiền ghi trên hóa đơn, sai về thuế suất, tiền thuế, hoặc hàng hóa ghi trên hóa đơn không đúng quy cách, chất lượng thì các bên lập văn bản thỏa thuận ghi rõ sai sót và người bán lập HĐĐT mới, thay thế cho hóa đơn đã lập. Trường hợp cơ quan thuế phát hiện HĐĐT đã được cấp mã, hoặc HĐĐT không mã đã lập có sai sót, sau khi gửi cơ quan thuế thì cơ quan thuế thông báo cho người bán để người bán kiểm tra sai sót và lập lại HĐĐT mới thay thế HĐĐT đã lập có sai sót (nếu cần thay thế).

Phương thức chuyển dữ liệu HĐĐT đến cơ quan thuế

Điều 16 TT68 đã hướng dẫn phương thức, thời điểm và hình thức chuyển dữ liệu HĐĐT không có mã đến cơ quan thuế theo bảng tổng hợp dữ liệu HĐĐT (theo phụ lục 2 ban hành kèm theo TT68) áp dụng đối với 4 trường hợp là, các đơn vị cung cấp dịch vụ thuộc lĩnh vực: ngân hàng, bưu chính viễn thông, bảo hiểm, tài chính ngân hàng, vận tải hàng không; các đơn vị bán hàng hóa là điện, nước sạch nếu có thông tin về mã khách hàng hoặc mã số thuế của khách hàng hoặc trường hợp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ đến người tiêu dùng là cá nhân mà trên hóa đơn không nhất thiết phải có tên, địa chỉ người mua. Trường hợp bán xăng dầu cho người tiêu dùng cá nhân thì người bán tổng hợp dữ liệu tất cả các hóa đơn bán hàng cho người tiêu dùng là cá nhân không kinh doanh trong ngày theo từng mặt hàng để thể hiện trên bảng tổng hợp dữ liệu HĐĐT. Đối với trường hợp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ không thuộc trường hợp nêu trên phải chuyển đầy đủ nội dung hóa đơn.

Về thời điểm chuyển, trường hợp thuộc đối tượng chuyển dữ liệu HĐĐT theo bảng tổng hợp, thì gửi cơ quan thuế cùng với thời gian gửi tờ khai thuế GTGT theo quy định của Luật Quản lý thuế và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trường hợp thuộc đối tượng chuyển đầy đủ nội dung hóa đơn thì người bán sau khi lập đầy đủ các nội dung trên hóa đơn, gửi hóa đơn cho người mua, đồng thời gửi hóa đơn cho cơ quan thuế.

Điều kiện được cung cấp dịch vụ HĐĐT

Theo TT68, điều kiện đối với tổ chức cung cấp dịch vụ HĐĐT bao gồm, chủ thể có tối thiểu 5 năm hoạt động trong lĩnh vực CNTT, đã triển khai hệ thống ứng dụng CNTT; cho tối thiểu 10 tổ chức; đã triển khai hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử giữa các chi nhánh của DN hoặc giữa các tổ chức với nhau. Về tài chính, có cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng hoạt động hợp pháp tại Việt Nam với giá trị trên 5 tỷ đồng. Về nhân sự, có tối thiểu 20 nhân viên kỹ thuật trình độ đại học chuyên ngành về công nghệ thông tin, có kinh nghiệm thực tiễn về quản trị mạng, quản trị cơ sở dữ liệu; có nhân viên kỹ thuật thường xuyên theo dõi, kiểm tra 24h trong ngày và 7 ngày trong tuần. Về kỹ thuật, có hệ thống thiết bị kỹ thuật dự phòng đặt tại trung tâm dự phòng cách xa trung tâm dữ liệu chính tối thiểu 20km, sẵn sàng hoạt động khi hệ thống chính gặp sự cố.

TT68 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 14/11/2019. Từ ngày TT68 có hiệu lực thi hành đến ngày 31/10/2020, các văn bản của Bộ Tài chính ban hành như thông tư hướng dẫn về hóa đơn tự in, hóa đơn đặt in, hóa đơn mua của cơ quan thuế, HĐĐT và quyết định về việc thí điểm sử dụng HĐĐT có mã xác thực của cơ quan thuế vẫn có hiệu lực./.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Xử lý tiền thuế nợ không có nghĩa là xóa nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp thuế

Xử lý tiền thuế nợ không có nghĩa là xóa nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp thuế

Đó là quan điểm của Luật sư Hà Huy Phong, Giám đốc Công ty Luật TNHH Inteco (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) khi trao đổi về dự thảo nghị quyết về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp NSNN (dự thảo nghị quyết xử lý tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi).

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Xử lý tiền thuế nợ không có nghĩa là xóa nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp thuế

Thưa ông, dự thảo nghị quyết  xử lý tiền thuế nợ không còn khả năng thu hồi sẽ được trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp tới đây. Ông có thể phân tích cụ thể về những căn cứ pháp lý xung quanh đề xuất này?

Dự thảo nghị quyết có mấy vấn đề cần quan tâm. Thứ nhất, về nguyên tắc xử lý tiền thuế nợ đã đảm bảo đúng yêu cầu, mục tiêu đặt ra. Thứ hai, về đối tượng, dự thảo nghị quyết đưa ra 7 trường hợp dự kiến được đề xuất xử lý tiền thuế nợ. Nói một cách khái quát, thì nhóm các đối tượng này đều có thể coi là không còn tồn tại, hoặc không còn khả năng đóng thuế trên thực tế. Do đó, việc giữ lại chỉ là con số trên sổ sách gây hiện tượng ảo, không phản ánh chính xác thực trạng và môi trường chung của nền kinh tế. Việc xử lý tiền nợ thuế, trong đó xóa tiền phạt chậm nộp và tiền chậm nộp không còn khả năng thu hồi (nợ ảo), giúp cho số nợ không tiếp tục gia tăng ảo, cơ quan thuế, hải quan giảm chi phí quản lý, có điều kiện tập trung nguồn lực và việc quản lý thu tốt hơn, tăng cường chống thất thu cho ngân sách, đồng thời cũng phán ánh đúng thực chất, tình trạng nợ thuế của nền kinh tế, minh bạch việc xây dựng các kế hoạch thu chi NSNN, đảm bảo tính thực tế và khả thi cao. Chính vì vậy, mới cần đến một nghị quyết của Quốc hội, là cơ quan lập pháp cao nhất. Mặc dù, Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14 đã có quy định về vấn đề này, nhưng phải đến đến 1/7/2020 mới có hiệu lực thi hành, nên việc ban hành một nghị quyết riêng của Quốc hội là cần thiết, tạo cơ sở pháp lý và hành lang cho việc xử lý xóa nợ thuế. 

Thứ ba, về thẩm quyền xoá nợ thuế, dự thảo đã nêu rõ là, áp dụng theo quy định tại Điều 84 và Điều 87 của Luật Quản lý thuế 38/2019/QH14. Theo đó, thẩm quyền khoanh nợ được giao cho thủ trưởng cơ quan quản lý thuế quản lý trực tiếp người nộp thuế quyết định việc khoanh nợ. Còn việc xoá nợ đối với DN và tổ chức, Thủ tướng quyết định xóa nợ đối với nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp từ 15 tỷ đồng trở lên; Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định xoá nợ từ 10-15 tỷ đồng; Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan quyết định xoá nợ từ 5-10 tỷ đồng; chủ tịch UBND tỉnh quyết định xóa dưới 5 tỷ đồng. Riêng xóa nợ đối với cá nhân, cá nhân kinh doanh, hộ gia đình, hộ kinh doanh, thì dự thảo đề xuất chủ tịch UBND tỉnh quyết định xóa nợ trên cơ sở hồ sơ đề nghị của cơ quan quản lý thuế. Sự phân cấp như vậy đã cụ thể hóa nguyên tắc về mặt thẩm quyền và trình tự xử lý để đảm bảo tính minh bạch và chống tiêu cực trong việc xử lý nợ thuế.

Việc xóa tiền thuế nợ chậm nộp, tiền phạt chậm nộp không trái với pháp luật và quy định của Hiến pháp. Do đó, việc Quốc hội ban hành một nghị quyết như vậy không tạo ra bất kỳ mâu thuẫn hoặc trái với quy định hiện hành nào trong hệ thống pháp luật. Bên cạnh đó, việc ban hành nghị quyết được căn cứ vào thực tiễn hoạt động quản lý và phản ảnh sự tồn tại khách quan của xã hội và nền kinh tế. Nếu chúng ta cứ cố níu giữ những con số ảo sẽ gây hiểu nhầm về khả năng thu ngân sách, về bức tranh tài chính của nền kinh tế cũng như làm lệch lạc các kế hoạch thu chi NSNN.

Có ý kiến cho rằng, người nộp thuế đã bị cơ quan quản lý thuế có văn bản đề nghị cơ quan có thẩm quyền, hoặc đã bị cơ quan có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh…về cơ bản là những trường hợp vi phạm pháp luật, không xuất phát từ nguyên nhân khách quan, do đó, việc đề xuất xử lý nợ với đối tượng này là không đúng với quy định pháp luật. Quan điểm của ông ra sao?

 Ở đây chúng ta tôn trọng yếu tố thực tế. Tức là cho dù có cố gắng đến mấy, nhưng vì đối tượng nộp thuế không còn tồn tại, khả năng trả tiền thuế không còn, thì để treo con số trên sổ sách cũng không thể làm NSNN tăng lên. Dự thảo của Chính phủ đề xuất khoanh nợ và xóa tiền phạt, tiền chậm nộp, người nộp thuế có tiền thành lập DN mới thì phải nộp vào ngân sách khoản nợ này, do đó tôi phải nhấn mạnh rằng, việc xử lý nợ thuế không phải là biện pháp miễn trừ trách nhiệm của những người có trách nhiệm liên quan đến việc nợ thuế. Nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, thì vẫn phải xử lý theo đúng quy định. Việc xử lý nợ thuế này phù hợp với thực tiễn, chứ không xóa đi nghĩa vụ và trách nhiệm của người nộp thuế.

Theo dự thảo, trường hợp đã được xoá nợ, nếu phát hiện việc xoá nợ không đúng quy định, hoặc người nộp thuế quay trở lại sản xuất kinh doanh, thì phải nộp vào ngân sách khoản đã được xoá. Ông có cho rằng quy định này là cần thiết để đảm bảo tính tuân thủ pháp luật, công khai, minh bạch, tránh thất thoát, cũng như là nguyên tắc để ràng buộc trách nhiệm của người nộp thuế?

Tôi cho rằng đây là quy định có tính phòng ngừa gian lận và tiêu cực, cũng như dự liệu một thực tế có khả năng xảy ra. Nói cách khác, là một biện pháp phòng ngừa lách luật để trốn thuế. Một DN rơi vào hoàn cảnh khó khăn, hoàn toàn có thể tạm dừng hoạt động, nộp hồ sơ xin giải thể, thậm chí bị ra quyết định thu hồi giấy chứng nhận đăng ký DN, nhưng sau đó, vẫn có khả năng quay lại hoạt động bình thường. Nếu quay lại hoạt động, thì tư cách người nộp thuế vẫn còn tồn tại và sẽ không thuộc trường hợp được xóa nợ thuế. Quy định này là cần thiết và trong văn bản luật phải có những quy định mang tính dự liệu và phòng ngừa như vậy.

Bên cạnh đó, tôi cho rằng, các nội dung dự thảo của nghị quyết về cơ bản là phù hợp với tình hình hoạt động của các DN, đáp ứng đòi hỏi công tác quản lý thuế hiện nay. Tuy nhiên, cần có thêm các quy định về cơ chế giám sát tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước có liên quan trong quá trình thực hiện để tránh gian lận, tiêu cực. Đơn cử như hàng quý, hàng năm cơ quan có thẩm quyền phải công bố danh sách đối tượng nộp thuế được hưởng xóa nợ thuế và công bố công khai trên các phương tiện đại chúng để nhân dân biết và giám sát. Bất kỳ khiếu nại hoặc tố cáo nào liên quan phải được xử lý và trả lời công luận một cách kịp thời, công khai. Ngoài ra, hiện tại mới chỉ có dự thảo nghị quyết của Quốc hội, nên sau này khi chính thức được Quốc hội thông qua và có hiệu lực, thì cũng cần phải có văn bản hướng dẫn thi hành thì mới đảm bảo tính đầy đủ, chi tiết về mặt thủ tục.  

Xin cảm ơn ông!  

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Phòng, chống buôn lậu trước, trong và sau Tết Nguyên đán 2020

Phòng, chống buôn lậu trước, trong và sau Tết Nguyên đán 2020

Ngày 18/10/2019, Cục Điều tra chống buôn lậu - Tổng cục Hải quan đã tổ chức Hội nghị triển khai phối hợp công tác kiểm soát hải quan, chống buôn lậu trước, trong và sau Tết Nguyên đán Canh Tý 2020.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Phòng, chống buôn lậu trước, trong và sau Tết Nguyên đán 2020

Hội nghị có sự tham gia của lãnh đạo Tổng cục Hải quan, đại diện lãnh đạo các đơn vị chức năng thuộc Bộ Công an, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển.

Phát biểu tại Hội nghị, Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu Nguyễn Hùng Anh cho biết, thời gian qua, đơn vị đã chủ trì, phối hợp với lực lượng chức năng xác lập chuyên án đấu tranh, triệt phá nhiều vụ buôn lậu có tính chất xuyên quốc gia, góp phần vào thành tích chung của ngành Hải quan.

Điển hình như, thống kê từ năm 2015 đến 15/9/2019, Cục Điều tra chống buôn lậu đã chủ trì, phối hợp phát hiện, bắt giữ 1.063 vụ việc, khởi tố 79 vụ, chuyển cơ quan chức năng kiến nghị khởi tố 30 vụ. Bên cạnh đó, đơn vị đã hoàn thành 500 hồ sơ điều tra nghiên cứu nắm tình hình, trong đó xác lập hơn 100 chuyên án và triệt phá thành công nhiều chuyên án lớn.

Tại hội nghị, Phó Cục trưởng Cục Điều tra chống buôn lậu Nguyễn Khánh Quang đã trình bày Dự thảo Kế hoạch cao điểm đấu tranh chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới trước, trong và sau Tết Nguyên đán Canh Tý 2020… Dự thảo đang được đơn vị hoàn thiện, sớm trình lãnh đạo Tổng cục Hải quan ký ban hành.

Ông Quang cho biết, theo kinh nghiệm, trong các tháng cuối năm và Tết Nguyên đán, tình hình hoạt động buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa qua các cửa khẩu biên giới có khả năng diễn biến phức tạp do nhu cầu tiêu dùng gia tăng cao.

Để chủ động ứng phó với tình hình đó, Cục Điều tra chống buốn lậu đề xuất giải pháp cụ thể để các đơn vị hải quan tăng cường công tác thu thập thông tin, nắm tình hình, tuần tra, kiểm soát tại địa bàn khu vực cửa khẩu đường bộ, khu kinh tế cửa khẩu, khu vực tập kết hàng hóa gần biên giới, khu vực cảng biển, cảng sông quốc tế, cảng hàng không dân dụng quốc tế, bưu điện, chuyển phát nhanh quốc tế, đường sắt liên vận quốc tế và các địa điểm khác thuộc địa bàn kiểm soát hải quan; Đồng thời, kiểm soát chặt chẽ hàng hóa xuất nhập khẩu, hành lý của hành khách xuất nhập cảnh dịp cuối năm 2019 và trước, trong, sau tết.

Bên cạnh đó, đặc biệt chú trọng kiểm soát chặt các mặt hàng cấm, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng tiêu dùng thiết yếu dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán như: vũ khí, ma túy, xăng dầu, vật liệu nổ, pháo các loại, động vật hoang dã, điện thoại di động, hàng may mặc, thực phẩm, dược liệu, rượu, bia, thuốc lá, bánh kẹo, mỹ phẩm.

Về tổ chức thực hiện kế hoạch cao điểm chống buôn lậu dịp Tết, Cục Điều tra chống buốn lậu sẽ phân công nhiệm vụ cụ thể cho các đơn vị để chủ động kiểm tra, giám sát đạt hiệu quả tại địa bàn quản lý.

Chia sẻ thêm về việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phá án, ông Quang cho hay, lực lượng hải quan tiếp tục chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng khác như: quản lý thị trường, bộ đội biên phòng, công an, cảnh sát biển và chính quyền địa phương để chia sẻ thông tin, phát hiện, bắt giữ đối tượng và hàng hoá vi phạm góp phần bình ổn thị trường Tết Nguyên đán, thúc đẩy sản xuất trong nước.

Đến dự và phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan Nguyễn Văn Cẩn biểu dương, đánh giá cao thành tích, kết quả đấu tranh của Cục Điều tra chống buôn lậu và lực lượng kiểm soát hải quan toàn ngành Hải quan đạt được trong thời gian qua.

Tổng cục trưởng cũng yêu cầu Cục Điều tra chống buôn lậu và các đơn vị chức năng tiếp tục nêu cao tinh thần trách nhiệm, thực hiện hiệu quả nhiệm vụ chống buôn lậu, góp phần đảm bảo an ninh, an toàn cộng đồng, chống thất thu ngân sách.

Về Kế hoạch chống buôn lậu trước, trong và sau Tết Nguyên đán Canh Tý 2020, Tổng cục trưởng chỉ đạo Cục Điều tra chống buôn lậu cần tiếp tục hoàn thiện các nội dung liên quan.

Trong đó, đặc biệt chú trọng nội dung đấu tranh phòng, chống không chỉ những mặt hàng truyền thống, có nguy có vi phạm cao như rượu, bia, thuốc lá, mà còn cần mở rộng tập trung thêm vào những mặt hàng “nóng” mặt hàng có nguy cơ gian lận, vi phạm cao đang được Chính phủ, Ban chỉ đạo 389 quốc gia chỉ đạo quyết liệt trong giai đoạn hiện nay.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Ngành Tài chính: 4 năm liên tiếp thu ngân sách vượt dự toán

Ngành Tài chính: 4 năm liên tiếp thu ngân sách vượt dự toán

Tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XIV, trình bày báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2019, dự toán NSNN và phương án phân bổ ngân sách Trung ương (NSTW) năm 2020, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính-Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành, cộng đồng doanh nghiệp và đặc biệt là sự vào cuộc quyết liệt của ngành Tài chính trong thực hiện nhiệm vụ tài chính-ngân sách.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

4 năm liên tiếp thu ngân sách vượt dự toán

Trình bày Báo cáo thẩm tra về tình hình thực hiện NSNN năm 2019, dự toán NSNN và phân bổ NSTW năm 2020 (chiều ngày 21/10), Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải nêu rõ, Ủy ban Tài chính – Ngân sách đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và sự cố gắng của cộng đồng doanh nghiệp, các tầng lớp Nhân dân, sự chủ động, tích cực của ngành Tài chính, cùng với sự phối hợp có trách nhiệm cao của các cơ quan trong hệ thống chính trị đã nỗ lực cố gắng vượt qua khó khăn, thách thức để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ tài chính-ngân sách trong năm 2019 đã đề ra.

Ghi nhận năm thứ 4 liên tiếp thu ngân sách vượt dự toán

Về tình hình thu, báo cáo của Chính phủ cho thấy, tổng thu NSNN cả năm ước vượt 46 nghìn tỷ đồng (tăng 3,3% so với dự toán); tỷ lệ huy động vào NSNN đạt 23,7%GDP. Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho rằng, đây là một kết quả đáng ghi nhận, là năm thứ tư liên tiếp thu NSNN vượt dự toán, trong đó thu NSTW cũng là năm thứ hai vượt dự toán.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải cũng thẳng thẳng chỉ rõ, mặc dù ước thu NSNN năm 2019 là năm thứ tư vượt dự toán, nhưng còn chưa chắc chắn. Thu nội địa chỉ tăng 1,9% so với dự toán. Số thu NSNN thực chất từ nội lực nền kinh tế tăng còn thấp. Năm 2019 nhiều địa phương ước thu thấp không đạt dự toán Chính phủ giao và Hội đồng nhân dân giao. Một số địa phương là trọng điểm thu NSNN lại có tiến độ thu chậm, như: TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… Đề nghị Chính phủ lưu ý có biện pháp quyết liệt để thực hiện các vấn đề này trong công tác hành thu NSNN từ nay đến cuối năm.

Tỷ lệ huy động từ thuế, phí vào NSNN chỉ đạt 20,2%GDP, chưa đạt yêu cầu do Quốc hội đề ra là 21%GDP. Thu từ 3 khu vực doanh nghiệp đều không đạt dự toán. Điều này cho thấy tình hình sản xuất, kinh doanh vẫn còn nhiều khó khăn.Ủy ban Tài chính – Ngân sách đề nghị Chính phủ cần tiếp tục có những giải pháp mới để thúc đẩy sản xuất, kinh doanh trong nước, góp phần bảo đảm thu NSNN ngày càng vững chắc hơn từ các khu vực kinh tế.

Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng đề nghị, từ nay đến cuối năm, Chính phủ cần lưu ý về dự báo giá dầu thế giới trong 3 tháng cuối năm. Cần có biện pháp kiểm soát chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu để tăng thu và đẩy mạnh việc truy thu trong lĩnh vực này. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thuế sau hoàn thuế, sau thông quan, xác định số hoàn thuế giá trị gia tăng cho phù hợp; quyết liệt hơn trong việc đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế xuát nhập khẩu nhằm phấn đấu vượt thu cao hơn so với số dự ước.

Vẫn còn hạn chế trong chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển

Theo Báo cáo của Chính phủ, ước thực hiện chi NSNN cả năm tăng 2,1% so với dự toán (thấp hơn năm 2018 là 2,6%). Ủy ban Tài chính – Ngân sách cho rằng, trong năm 2019, Chính phủ và các địa phương đã tích cực cơ cấu lại chi ngân sách, giảm dần chi thường xuyên, tăng chi đầu tư phát triển, kiểm soát chặt chẽ bội chi, giảm nợ công và quyết liệt điều hành chi NSNN theo hướng tiết kiệm, chú trọng hiệu quả. Tuy nhiên, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Đức Hải cũng chỉ rõ, mặc dù Chính phủ đã nỗ lực để giảm chi thường xuyên, chú trọng công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí… nhưng về cơ bản, những tồn tại trong chi thường xuyên đã được Quốc hội đề cập trong những năm gần đây vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Ủy ban Tài chính – ngân sách cũng ghi nhận kết quả thực hiện chi đầu tư pháp triển cả năm 2019 ước đạt 443,4 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% so với dự toán. Qua giám sát cho thấy, trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, nhu cầu chi lớn, Chính phủ và các địa phương đã thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, dành nguồn lực cho chi đầu tư phát triển. Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng thấy nổi lên một số vấn đề như tình trạng chậm giao vốn, giao nhiều đợt và chậm điều chỉnh vốn đầu tư phát triển, trong đó có vốn ODA vẫn chưa được khắc phục. Vốn đầu tư phát triển tiếp tục giải ngân rất chậm. Tỷ lệ giải ngân đến nay mới chỉ đạt 49,1% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao. Tình trạng chuyển nguồn vẫn còn lớn, đặc biệt là có vướng mắc về phạm vi chuyển nguồn đối với một số khoản chi sự nghiệp kinh tế có tính chất chi đầu tư theo Luật NSNN, về nguồn vốn bổ sung có mục tiêu từ NSTW…

Về bội chi và cân đối NSNN năm 2019, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Đức Hải đánh giá cao kết quả điều hành NSNN theo hướng siết chặt bội chi, mức bội chi không cao hơn so với dự toán. Mức bội chi giảm (12.500 tỷ đồng) là do giảm phần bội chi của NSĐP. Theo báo cáo của Chính phủ, bội chi NSNN năm 2019 bằng 3,4%GDP ước thực hiện (thấp hơn dự toán: 3,6%GDP); đồng thời, về tổng thể đã giảm bội chi NSĐP.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Đức Hải nhấn mạnh, điều này thể hiện sự nỗ lực của Chính phủ và chính quyền địa phương trong kiểm soát và điều hành ngân sách, góp phần bảo đảm an ninh, an toàn tài chính quốc gia.

Theo báo cáo của Chính phủ, so với GDP ước thực hiện thì các chỉ tiêu về nợ công (56,1%GDP), nợ chính phủ (49,2%GDP) và nợ nước ngoài của quốc gia (45,8%GDP) đều giảm so với dự toán. Điều này cho thấy, cân đối NSNN đang có những tín hiệu tích cực, ổn định hơn, các chỉ tiêu nợ công vẫn trong giới hạn an toàn.

Ngoài ra, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính – Ngân sách cũng cơ bản thống nhất với báo cáo của Chính phủ về dự báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2020, cơ bản đồng ý với đề xuất của Chính phủ tổng dự toán thu NSNN; cũng như đồng ý với nguyên tắc, định hướng bố trí dự toán chi NSNN năm 2020 và dự kiến tổng chi cân đối NSNN tăng 113,8 nghìn tỷ đồng (7%) so với dự toán năm 2019.

Để Quốc hội có đủ cơ sở xem xét, quyết định về đánh giá tình hình thực hiện NSNN năm 2019, dự toán NSNN và phương án phân bổ NSTW năm 2020, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Nguyễn Đức Hải đề nghị đại biểu Quốc hội tập trung thảo luận về: đánh giá tình hình thu, chi NSNN; những vấn đề nổi lên trong quản lý thu, chi NSNN năm 2019; bội chi và giải pháp điều hành, cân đối NSNN năm 2019; Tổng thu, tổng chi, cơ cấu thu - chi NSNN và mức bội chi NSNN năm 2020; giải pháp thực hiện dự toán NSNN năm 2020; Các nguyên tắc, cơ cấu phân bổ chi thường xuyên, chi đầu tư phát triển của NSTW năm 2020; quy mô và tỷ trọng NSTW để đảm bảo vai trò chủ đạo và việc phân bổ chi đầu tư phát triển (dự án quan trọng quốc gia, chương trình mục tiêu quốc gia, chương trình mục tiêu), chi thường xuyên của NSTW năm 2020.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Hóa đơn điện tử gồm những nội dung gì?

Hóa đơn điện tử gồm những nội dung gì?

Thông tư số 68/2019/TT-BTC ngày 30/9/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ quy định về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ đã hướng dẫn cụ thể về nội dung của hóa đơn điện tử.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Hóa đơn điện tử gồm những nội dung gì?

Theo Thông tư số 68/2019/TT-BTC, hóa đơn điện tử bao gồm 08 nội dung sau:

Một là, tên hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn, số hóa đơn

Trong đó, tên hóa đơn là tên của từng loại hóa đơn quy định tại Điều 5 Nghị định số 119/2018/NĐ-CP được thể hiện trên mỗi hóa đơn.

Ký hiệu mẫu số hóa đơn ký tự có một chữ số tự nhiên là các số tự nhiên 1, 2, 3, 4 để phản ánh loại hóa đơn như sau: Số 1 phản ánh loại Hóa đơn giá trị gia tăng; Số 2 phản ánh loại Hóa đơn bán hàng; Số 3 phản ánh loại Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử; Số 4 phản ánh các loại hóa đơn khác là tem điện tử, vé điện tử, thẻ điện tử, phiếu thu điện tử hoặc các chứng từ điện tử có tên gọi khác nhưng có nội dung của hóa đơn điện tử.

Ký hiệu hóa đơn là nhóm 6 ký tự gồm cả chữ viết và chữ số thể hiện ký hiệu hóa đơn để phản ánh các thông tin về loại hóa đơn có mã của cơ quan thuế hoặc hóa đơn không mã, năm lập hóa đơn, loại hóa đơn điện tử được sử dụng.

Số hóa đơn là số thứ tự được thể hiện trên hóa đơn khi người bán lập hóa đơn. Số hóa đơn được ghi bằng chữ số Ả Rập có tối đa 8 chữ số, bắt đầu từ số 1 vào ngày 01/01 hoặc ngày bắt đầu sử dụng hóa đơn và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm có tối đa đến số 99 999 999. Hóa đơn được lập theo thứ tự liên tục từ số nhỏ đến số lớn trong cùng một ký hiệu hóa đơn và ký hiệu mẫu số hóa đơn.

Trường hợp số hóa đơn không được lập theo nguyên tắc nêu trên thì hệ thống lập hóa đơn điện tử phải đảm bảo nguyên tắc tăng theo thời gian, mỗi số hóa đơn đảm bảo chỉ được lập, sử dụng một lần duy nhất và tối đa 8 chữ số.

Hai là, tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán

Trên hóa đơn phải thể hiện tên, địa chỉ, mã số thuế của người bán theo đúng tên, địa chỉ, mã số thuế ghi tại giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, thông báo mã số thuế, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Ba là, tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua (nếu người mua có mã số thuế)

Trường hợp người mua là cơ sở kinh doanh có mã số thuế thì tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua thể hiện trên hóa đơn phải ghi theo đúng tại giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh, giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, thông báo mã số thuế, giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.

Trường hợp người mua không có mã số thuế thì trên hóa đơn không phải thể hiện mã số thuế người mua. Một số trường hợp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ đặc thù cho người tiêu dùng là cá nhân quy định tại Khoản 3 Điều này thì trên hóa đơn không phải thể hiện tên, địa chỉ người mua. Trường hợp bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho khách hàng nước ngoài đến Việt Nam thì thông tin về địa chỉ người mua có thể được thay bằng thông tin về số hộ chiếu hoặc giấy tờ xuất nhập cảnh và quốc tịch của khách hàng nước ngoài.

Bốn là, tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ; thành tiền chưa có thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng, tổng số tiền thuế giá trị gia tăng theo từng loại thuế suất, tổng cộng tiền thuế giá trị gia tăng, tổng tiền thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng.

Năm là, chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán và người mua

Trường hợp người bán là doanh nghiệp, tổ chức thì chữ ký số của người bán trên hóa đơn là chữ ký số của doanh nghiệp, tổ chức; trường hợp người bán là cá nhân thì sử dụng chữ ký số của cá nhân hoặc người được ủy quyền.

Trường hợp người mua là cơ sở kinh doanh và người mua, người bán có thỏa thuận về việc người mua đáp ứng các điều kiện kỹ thuật để ký số, ký điện tử trên hóa đơn điện tử do người bán lập thì người mua ký số, ký điện tử trên hóa đơn.

Sáu là, thời điểm lập hóa đơn điện tử

Thời điểm lập hóa đơn điện tử xác định theo thời điểm người bán ký số, ký điện tử trên hóa đơn được hiển thị theo định dạng ngày, tháng, năm (ví dụ: ngày 30 tháng 4 năm 2019).

Bảy là, mã của cơ quan thuế đối với hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế.

Tám là, phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước, chiết khấu thương mại, khuyến mại (nếu có).

Ngoài ra, doanh nghiệp, tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh có thể tạo thêm thông tin về biểu trưng hay logo để thể hiện nhãn hiệu, thương hiệu hay hình ảnh đại diện của người bán. Tùy theo đặc điểm, tính chất giao dịch và yêu cầu quản lý, trên hóa đơn có thể thể hiện thông tin về Hợp đồng mua bán, lệnh vận chuyển, mã khách hàng và các thông tin khác.

Đối với Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử trên phiếu thể hiện các thông tin liên quan lệnh điều động nội bộ, người nhận hàng, người xuất hàng, địa chỉ kho xuất, địa chỉ kho nhận; phương tiện vận chuyển cụ thể: Tên người xuất hàng, Lệnh điều động nội bộ; Địa chỉ kho xuất hàng, tên người vận chuyển và phương tiện vận chuyển; Tên người nhận hàng; Địa chỉ kho nhận hàng.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

08 trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết có đầy đủ nội dung

08 trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết có đầy đủ nội dung

Đó là một trong những nội dung được quy định tại Thông tư số 68/2019/TT-BTC ngày 30/9/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ về hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

08 trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết có đầy đủ nội dung

Theo Thông tư số 68/2019/TT-BTC, hóa đơn điện tử bao gồm các nội dung: tên hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn, số hóa đơn; địa chỉ, mã số thuế của người bán; tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua (nếu người mua có mã số thuế); tên, đơn vị tính, số lượng, đơn giá hàng hóa, dịch vụ; thành tiền chưa có thuế giá trị gia tăng, thuế suất thuế giá trị gia tăng, tổng số tiền thuế giá trị gia tăng theo từng loại thuế suất, tổng cộng tiền thuế giá trị gia tăng, tổng tiền thanh toán đã có thuế giá trị gia tăng; chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán và người mua; thời điểm lập hóa đơn điện tử; mã của cơ quan thuế đối với hóa đơn điện tử có mã của cơ quan thuế; phí, lệ phí thuộc ngân sách nhà nước, chiết khấu thương mại, khuyến mại (nếu có).

Tuy nhiên, Thông tư số 68/2019/TT-BTC hướng dẫn, có 08 trường hợp hóa đơn điện tử không nhất thiết có đầy đủ các nội dung, cụ thể:

Một là, trên hóa đơn điện tử không nhất thiết phải có chữ ký điện tử của người mua (bao gồm cả trường hợp lập hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ cho khách hàng ở nước ngoài). Trường hợp người mua là cơ sở kinh doanh và người mua, người bán có thỏa thuận về việc người mua đáp ứng các điều kiện kỹ thuật để ký số, ký điện tử trên hóa đơn điện tử do người bán lập thì hóa đơn điện tử có chữ ký số, ký điện tử của người bán và người mua theo thỏa thuận giữa hai bên.

Hai là, đối với hóa đơn điện tử bán hàng tại siêu thị, trung tâm thương mại mà người mua là cá nhân không kinh doanh thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có tên, địa chỉ, mã số thuế người mua.

Ba là, đối với hóa đơn điện tử bán xăng dầu cho khách hàng là cá nhân không kinh doanh thì không nhất thiết phải có các chỉ tiêu tên hóa đơn, ký hiệu mẫu số hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, số hóa đơn; tên, địa chỉ, mã số thuế của người mua, chữ ký điện tử của người mua; chữ ký số, chữ ký điện tử của người bán, thuế suất thuế giá trị gia tăng. Người bán phải đảm bảo lưu trữ đầy đủ hóa đơn điện tử đối với trường hợp bán xăng dầu cho khách hàng là cá nhân không kinh doanh theo quy định và đảm bảo có thể tra cứu khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.

Bốn là, đối với hóa đơn điện tử là tem, vé, thẻ thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có chữ ký điện tử, chữ ký số của người bán (trừ trường hợp tem, vé, thẻ là hóa đơn điện tử do cơ quan thuế cấp mã), tiêu thức người mua (tên, địa chỉ, mã số thuế), tiền thuế, thuế suất thuế giá trị gia tăng. Trường hợp tem, vé, thẻ điện tử có sẵn mệnh giá thì không nhất thiết phải có tiêu thức đơn vị tính, số lượng, đơn giá.

Năm là, đối với chứng từ điện tử dịch vụ vận tải hàng không xuất qua website và hệ thống thương mại điện tử được lập theo thông lệ quốc tế cho người mua là cá nhân không kinh doanh được xác định là hóa đơn điện tử thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu hóa đơn, số thứ tự hóa đơn, thuế suất thuế giá trị gia tăng, mã số thuế, địa chỉ người mua, chữ ký số, chữ ký điện tử người bán.

Trường hợp tổ chức kinh doanh hoặc tổ chức không kinh doanh mua dịch vụ vận tải hàng không thì chứng từ điện tử dịch vụ vận tải hàng không xuất qua website và hệ thống thương mại điện tử được lập theo thông lệ quốc tế cho các cá nhân của tổ chức kinh doanh, cá nhân của tổ chức không kinh doanh thì không được xác định là hóa đơn điện tử. Doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận tải hàng không hoặc đại lý phải lập hóa đơn điện tử có đầy đủ các nội dung theo quy định giao cho tổ chức có cá nhân sử dụng dịch vụ vận tải hàng không.

Sáu là, đối với hóa đơn của hoạt động xây dựng, lắp đặt; hoạt động xây nhà để bán có thu tiền theo tiến độ theo hợp đồng thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có đơn vị tính, số lượng, đơn giá.

Bảy là, đối với Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử thì trên Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển điện tử không thể hiện các tiêu thức người mua mà thể hiện tên người vận chuyển, phương tiện vận chuyển, địa chỉ kho xuất hàng, địa chỉ kho nhập hàng; không thể hiện tiền thuế, thuế suất, tổng số tiền thanh toán.

Tám là, hóa đơn sử dụng cho thanh toán Interline giữa các hãng hàng không được lập theo quy định của Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế thì trên hóa đơn không nhất thiết phải có các chỉ tiêu: ký hiệu hóa đơn, ký hiệu mẫu hóa đơn, tên địa chỉ, mã số thuế của người mua, chữ ký điện tử của người mua, đơn vị tính, số lượng, đơn giá.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Không dùng hóa đơn cơ quan thuế khi sử dụng hóa đơn điện tử

Không dùng hóa đơn cơ quan thuế khi sử dụng hóa đơn điện tử

Tại Công văn số 72264/CT-TTHT ngày 16/9/2019, Cục Thuế TP. Hà Nội đã giải đáp đề nghị của Công ty TNHH ZTE HK về sử dụng hóa đơn điện tử khi đang sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Hóa dơn điện tử

Điều kiện khởi tạo hóa đơn điện tử

Theo Cục Thuế TP. Hà Nội, khoản 3 Điều 35 Nghị định số 119/2018/NĐ-CP ngày 12/9/2018 của Chính phủ về hiệu lực thi hành quy định, trong thời gian từ ngày 01/11/2018 đến ngày 31/10/2020, các Nghị định: số 51/2010/NĐ-CP ngày 14/5/2010 và số 04/2014/NĐ-CP ngày 17/01/2014 của Chính phủ quy định về hóa đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ vẫn còn hiệu lực thi hành.

Thông tư số 32/2011/TT-BTC ngày 14/3/2011 của Bộ Tài chính hướng dẫn hướng dẫn về khởi tạo, phát hành, sử dụng và quản lý hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đã quy định cụ thể về điều kiện của tổ chức khởi tạo hóa đơn.

Theo đó, người bán hàng hóa, dịch vụ khởi tạo hóa đơn điện tử phải đáp ứng điều kiện sau:

Một là, là tổ chức kinh tế có đủ điều kiện và đang thực hiện giao dịch điện tử trong khai thuế với cơ quan thuế; hoặc là tổ chức kinh tế có sử dụng giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng.

Hai là, có địa điểm, các đường truyền tải thông tin, mạng thông tin, thiết bị truyền tin đáp ứng yêu cầu khai thác, kiểm soát, xử lý, sử dụng, bảo quản và lưu trữ hóa đơn điện tử;

Ba là, có đội ngũ người thực thi đủ trình độ, khả năng tương xứng với yêu cầu để thực hiện việc khởi tạo, lập, sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định;

Bốn là, có chữ ký điện tử theo quy định của pháp luật.

Năm là, có phần mềm bán hàng hóa, dịch vụ kết nối với phần mềm kế toán, đảm bảo dữ liệu của hóa đơn điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ được tự động chuyển vào phần mềm (hoặc cơ sở dữ liệu) kế toán tại thời điểm lập hóa đơn.

Sáu là, có các quy trình sao lưu dữ liệu, khôi phục dữ liệu, lưu trữ dữ liệu đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về chất lượng lưu trữ bao gồm: Hệ thống lưu trữ dữ liệu phải đáp ứng hoặc được chứng minh là tương thích với các chuẩn mực về hệ thống lưu trữ dữ liệu;  Có quy trình sao lưu và phục hồi dữ liệu khi hệ thống gặp sự cố: đảm bảo sao lưu dữ liệu của hóa đơn điện tử ra các vật mang tin hoặc sao lưu trực tuyến toàn bộ dữ liệu.

Khởi tạo hóa đơn điện tử là hoạt động tạo định dạng cho hóa đơn, thiết lập đầy đủ các thông tin của người bán, loại hóa đơn, ký hiệu hóa đơn, định dạng truyền - nhận và lưu trữ hóa đơn trước khi bán hàng hóa, dịch vụ trên phương tiện điện tử của tổ chức kinh doanh hoặc của các tổ chức cung cấp dịch vụ về hóa đơn điện tử và được lưu trữ trên phương tiện điện tử của các bên theo quy định của pháp luật.

Tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử trước khi khởi tạo hóa đơn điện tử phải ra quyết định áp dụng hóa đơn điện tử gửi cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp bằng văn bản giấy hoặc bằng văn bản điện tử gửi thông qua cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế và chịu trách nhiệm về quyết định này.

Quyết định áp dụng hóa đơn điện tử gồm các nội dung chủ yếu sau: Tên hệ thống thiết bị (tên các phương tiện điện tử), tên phần mềm ứng dụng dùng để khởi tạo, lập hóa đơn điện tử; Phương tiện điện tử là phương tiện hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không dây, quang học, điện từ hoặc công nghệ tương tự; Bộ phận kỹ thuật hoặc tên nhà cung ứng dịch vụ chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật hóa đơn điện tử, phần mềm ứng dụng; Quy trình khởi tạo, lập, luân chuyển và lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử trong nội bộ tổ chức; Trách nhiệm của từng bộ phận trực thuộc liên quan việc khởi tạo, lập, xử lý, luân chuyển và lưu trữ dữ liệu hóa đơn điện tử trong nội bộ tổ chức bao gồm cả trách nhiệm của người được thực hiện chuyển đổi hóa đơn điện tử sang hóa đơn giấy.

Phải thông báo cho cơ quan thuế

Trước khi sử dụng hóa đơn điện tử, tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử phải lập Thông báo phát hành hóa đơn điện tử gửi cơ quan thuế quản lý trực tiếp. Thông báo phát hành hóa đơn điện tử gồm các nội dung: tên đơn vị phát hành hóa đơn điện tử, mã số thuế, địa chỉ, điện thoại, các loại hóa đơn phát hành, ngày lập Thông báo phát hành; tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật và dấu của đơn vị; hoặc chữ ký điện tử của tổ chức phát hành (trường hợp gửi đến cơ quan thuế bằng trường điện tử thông qua cổng thông tin điện tử của cơ quan thuế).

Trường hợp có sự thay đổi địa chỉ kinh doanh, tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử phải gửi thông báo phát hành hóa đơn cho cơ quan thuế nơi chuyển đến, trong đó nêu rõ số hóa đơn đã phát hành chưa sử dụng, sẽ tiếp tục sử dụng. Trường hợp có sự thay đổi về nội dung đã thông báo phát hành, tổ chức, khởi tạo hóa đơn điện tử thực hiện thông báo phát hành mới theo hướng dẫn tại khoản này.

Tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử phải ký số vào hóa đơn điện tử mẫu và gửi hóa đơn điện tử mẫu (theo đúng định dạng gửi cho người mua) đến cơ quan thuế theo đường điện tử.Thông báo phát hành hóa đơn điện tử (không bao gồm hóa đơn điện tử mẫu) phải niêm yết tại trụ sở tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử hoặc đăng tải trên trang thông tin điện tử của tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử trong thời gian sử dụng hóa đơn điện tử.

Dừng hóa đơn mua của cơ quan thuế khi dùng hóa đơn điện tử

Theo Thông tư số 39/2014/TT-BTC ngày 31/3/2014 của Bộ Tài chính, cơ quan thuế bán hóa đơn cho các đối tượng sau: Tổ chức không phải là doanh nghiệp nhưng có hoạt động kinh doanh (bao gồm cả hợp tác xã, nhà thầu nước ngoài, ban quản lý dự án); Hộ, cá nhân kinh doanh; Tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp theo tỷ lệ % nhân với doanh thu; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in thuộc loại rủi ro cao về thuế; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có hành vi vi phạm về hóa đơn bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế, gian lận thuế.

Doanh nghiệp mua hóa đơn của cơ quan thuế trong thời gian 12 tháng. Hết thời gian 12 tháng, căn cứ tình hình sử dụng hóa đơn, việc kê khai, nộp thuế của doanh nghiệp và đề nghị của doanh nghiệp, trong thời hạn 5 ngày làm việc, cơ quan thuế có văn bản thông báo doanh nghiệp chuyển sang tự tạo hóa đơn để sử dụng hoặc tiếp tục mua hóa đơn của cơ quan thuế nếu không đáp ứng điều kiện tự in hoặc đặt in hóa đơn.

Thông tư số 39/2014/TT-BTC cũng quy định, tổ chức, doanh nghiệp thuộc đối tượng mua hóa đơn do cơ quan thuế phát hành chuyển sang tự tạo hóa đơn đặt in, hóa đơn tự in hoặc hóa đơn điện tử để sử dụng thì phải dừng sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế kể từ ngày bắt đầu sử dụng hóa đơn tự tạo. Tổ chức, hộ, cá nhân kinh doanh mua hóa đơn của cơ quan thuế không tiếp tục sử dụng thì tổ chức, hộ, cá nhân mua hóa đơn phải tiến hành hủy hóa đơn.

Hàng quý, tổ chức, hộ, cá nhân bán hàng hóa, dịch vụ (trừ đối tượng được cơ quan thuế cấp hóa đơn) có trách nhiệm nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp, kể cả trường hợp trong kỳ không sử dụng hóa đơn. Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn Quý I nộp chậm nhất là ngày 30/4; quý II nộp chậm nhất là ngày 30/7, quý III nộp chậm nhất là ngày 30/10 và quý IV nộp chậm nhất là ngày 30/01 của năm sau. Trường hợp trong kỳ không sử dụng hóa đơn, tại Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn ghi số lượng hóa đơn sử dụng bằng không.

Riêng doanh nghiệp sử dụng hóa đơn tự in, đặt có hành vi vi phạm không được sử dụng hóa đơn tự in, đặt in, doanh nghiệp thuộc loại rủi ro cao về thuế thuộc diện mua hóa đơn của cơ quan thuế thực hiện nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng.

Căn cứ các quy định trên, Cục Thuế TP. Hà Nội hướng dẫn, Công ty TNHH ZTE HK đã sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế từ tháng 12/2016 (đến nay hết thời hạn 12 tháng). Trường hợp Công ty đáp ứng các điều kiện của tổ chức khởi tạo hóa đơn điện tử như trên thì được sử dụng hóa đơn điện tử. Trước khi sử dụng đề nghị Công ty thực hiện Thông báo phát hành hóa đơn điện tử theo quy định.

Đồng thời, Công ty phải dừng sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế kể từ ngày bắt đầu sử dụng hóa đơn điện tử và thực hiện hủy hóa đơn mua của cơ quan thuế không tiếp tục sử dụng. Công ty có trách nhiệm nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo tháng từ ngày đầu tháng đến hết ngày dừng sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế và chuyển sang nộp Báo cáo tình hình sử dụng hóa đơn theo quý cho cơ quan thuế kể từ ngày kế tiếp theo quy định nêu trên.

Công ty TNHH ZTE HK phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác của việc khởi tạo, lập và sử dụng hóa đơn điện tử theo quy định.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Chính sách thuế, hải quan cho doanh nghiệp Hàn Quốc

Chính sách thuế, hải quan cho doanh nghiệp Hàn Quốc

Tại Hội nghị đối thoại về chính sách, thủ tục hành chính thuế và hải quan với doanh nghiệp (DN) Hàn Quốc năm 2019 do Bộ Tài chính và Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam tổ chức chiều ngày 24/9/2019, đại diện Tổng cục Thuế, Tổng cục Hải quan đã cập nhật những điểm mới và giải đáp về chính sách thuế, hải quan cho hơn 250 DN Hàn Quốc đang hoạt động sản xuất kinh doanh tại các tỉnh phía Bắc.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

 Chính sách thuế, hải quan cho doanh nghiệp Hàn Quốc

Thủ tục thuế, hải quan liên tục được cải cách

Phát biểu tại Hội nghị, ông Nguyễn Thế Mạnh, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, sau 27 năm thiết lập, quan hệ giữa Việt Nam-Hàn Quốc đã có những bước phát triển mạnh mẽ, hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. "Những thành tựu đó có vai trò to lớn của cộng đồng DN, trong đó có sự đóng góp quan trọng của cộng đồng DN Hàn Quốc tại Việt Nam."- Ông Mạnh khẳng định.

Chia sẻ về công tác cải cách thể chế, cũng như thủ tục hành chính thuế, hải quan, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế cho biết, thời gian qua, Chính phủ Việt Nam luôn chú trọng cải cách thủ tục hành chính, trong đó thủ tục thuế và hải quan luôn được đặc biệt quan tâm.

Theo đó, Bộ Tài chính đã và đang tiếp tục cải cách mạnh mẽ trên nhiều mặt như: xây dựng, hoàn thiện thể chế; cải cách thủ tục hành chính; hiện đại hóa hệ thống thuế, hải quan... nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các DN, nhà đầu tư sản xuất kinh doanh, hưởng thụ đầy đủ các chính sách ưu đãi về thuế, hải quan và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho DN trong việc thực hiện nghĩa vụ với NSNN.

Với những nỗ lực đó thời gian tuân thủ pháp luật thuế, Hải quan liên tục được cải thiện. Trong đó, ngành Thuế đã triển khai đồng bộ, có hiệu quả Luật Quản lý thuế vừa được Quốc hội thông quan tháng 6/2019, thực hiện kê khai thuế qua mạng đạt 99,7% số DN thuộc diện quản lý thuế, thực hiện triển khai khai thuế điện tử (E-Tax) từ đăng ký, kê khai, nộp thuế, hoàn thuế điện tử, hóa đơn điện tử, nộp thuế, phí liên quan đất đai, hộ cá nhân điện tử...

Trong lĩnh vực Hải quan, cơ quan hải quan đã rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa hầu hết các thủ tục; triển khai Hải quan điện tử tại 100% đơn vị Hải quan trên toàn quốc... Đồng thời, tích cực điện tử hóa, giảm bớt thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa.

Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thuế nhấn mạnh, với mục tiêu cải cách mạnh mẽ môi trường kinh doanh, thủ tục hành chính, tạo điều kiện tốt nhất cho cộng đồng DN, trong đó có DN Hàn Quốc, Bộ Tài chính sẵn sàng lắng nghe, tiếp nhận các thông tin về tình hình thực hiện các chính sách, kịp thời giải đáp những vướng mắc, tháo gỡ khó khăn cho DN và thủ tục hành chính theo thẩm quyền.

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Xử lý các đối tượng nợ đọng thuế để có chính sách phù hợp

Xử lý các đối tượng nợ đọng thuế để có chính sách phù hợp

Đó là quan điểm của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tại phiên họp cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về xử lý tiền thuế nợ đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước (NSNN) được tổ chức ngày 17/9.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Rà soát xử lý đối tượng nợ đọng thuế

Cần có chính sách thu hồi nợ thuế phù hợp 

Thời gian qua, cơ quan quản lý thuế đã có nhiều nỗ lực trong việc thu hồi nợ đọng thuế. Theo đó số thu hồi nợ đọng tăng dần qua các năm, bình quân từ 2015-2018 thu đạt 80% số nợ có khả năng thu hồi, tốc độ tăng bình quân 14,4%/năm. Tỷ trọng tổng nợ trên tổng thu nội địa đã giảm mạnh từ 12,2% năm 2014, đến năm 2017 giảm xuống ở mức 7,6% và tính đến cuối năm 2018 giảm xuống chỉ còn 6,7%, năm 2019 cũng tiếp tục giảm.

Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, tình trạng nợ đọng thuế đã xảy ra nhiều năm. Tuy nhiên, các năm gần đây thu hồi nợ đọng thuế luôn đạt mức năm sau cao hơn năm trước, mức tăng bình quân trên 14%/năm.

Như vậy, có thể nói cơ quan quản lý thuế đã thực hiện trách nhiệm trong đôn đốc thu hồi nợ đọng thuế rất quyết liệt và có kết quả cụ thể. Hàng năm, đặc biệt là khi ngân sách khó khăn, đây là một trong những trọng điểm mà Bộ Tài chính tập trung chỉ đạo đột phá để đảm bảo dự toán, đảm bảo thu ngân sách. Đây là việc được giao đến từng nhân viên, từng cán bộ thuế trong năm, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng khẳng định.

Tuy nhiên, theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, với nhưng người đã chết, mất tích, giải thể, phá sản… thì việc thực hiện giải pháp cưỡng chế, thu hồi về sau là rất khó khăn. Bên cạnh đó, mặc dù số nợ thuế các năm gần đây giảm rất sâu, nhưng do chúng ta có quy định tiền phạt chậm nộp thuế nên số nợ thuế hàng năm liên tục tăng. Do vậy, cần thiết phải có Nghị quyết này. Còn đối với các trường hợp lợi dụng kẽ hợp pháp luật, lợi dụng chính sách để trục lợi thì có chế tài để xử lý.

“Chúng tôi hiểu thuế là của ngân sách, nhưng đây là thuế từ những trường hợp đã chết, mất tích, giải thể, bỏ địa điểm kinh doanh… thực tế chưa phải là tiền thật, chưa vào ngân sách để mà mất ngân sách. Tại Nghị quyết này chúng tôi đề nghị rà soát xử lý với các đối tượng này theo hướng gốc thì khoanh lại theo dõi tiếp, chỉ có tiền phạt, tiền chậm nộp thì xin xoá. Đây cũng là giải pháp rất thận trọng”, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nói.

Bộ trưởng BTC Đinh Tiến Dũng

Giải pháp xóa nợ, khoanh nợ thuế

 thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty

Tập trung thanh tra các doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế

Tập trung thanh tra các doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế

Là một trong những yêu cầu của Bộ trưởng Bộ Tài chính tại Chỉ thị về việc tăng cường công tác thu ngân sách phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách và nhiệm vụ công tác quản lý thuế năm 2019.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Thanh tra doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế

Chỉ thị nêu rõ, để đảm bảo ngành thuế hoàn thành nhiệm vụ thu NSNN năm 2019 được giao, giúp Chính phủ chủ động trong điều hành thực hiện nhiệm vụ thu, chi năm 2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu Thủ trưởng cơ quan thuế các cấp tập trung thực hiện quyết liệt các giải pháp quản lý thu, khai thác nguồn thu, chống thất thu và đẩy nhanh tiến độ thu hồi tiền thuế nợ đọng,... hoàn thành nhiệm vụ thu Ngân sách Nhà nước đã được giao. Trong đó, tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:

Tất cả các đơn vị trong hệ thống thuế, từ Tổng cục đến Cục thuế, Chi cục thuế, các đội thuế cần quản lý đối tượng thu, theo dõi sát tiến độ thu nộp ngân sách để kịp thời triển khai các giải pháp quản lý thu, khai thác tăng thu; thường xuyên đánh giá kết quả, tiến độ thực hiện, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong quá trình quản lý nhằm hoàn thành vượt mức dự toán thu NSNN năm 2019 trên địa bàn đã được giao.

Đối với công tác thu hồi nợ đọng thuế, tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện nghiêm Chỉ thị số 04/CT-BTC ngày 15/10/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc tăng cường công tác quản lý nợ và cưỡng chế thu hồi nợ thuế để giảm nợ đọng ngành thuế quản lý.

Thực hiện quyết liệt các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế theo đúng quy định của Luật Quản lý thuế như tổ chức rà soát, phân loại nợ, theo dõi, giám sát chặt chẽ các khoản nợ thuế để kịp thời đôn đốc, nhắc nhở người nộp thuế, tăng cường đôn đốc xử lý nợ chây ỳ, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ, công khai thông tin nợ thuế trên các phương tiện thông tin đại chúng, phối hợp với chính quyền địa phương thành lập các đội liên ngành rà soát thu hồi nợ đọng thuế để thực hiện phương án xử lý nợ đọng thuế mà Cục thuế, Chi cục thuế đã xây dựng từ đầu năm, đồng thời, thu triệt để các khoản nợ mới phát sinh trong năm 2019.

Về công tác thanh tra, kiểm tra, Chỉ thị nhấn mạnh cần tăng cường kiểm soát việc triển khai thanh tra, kiểm tra thuế trong đơn vị theo từng tuần, tháng, quí để đôn đốc bố trí nguồn lực phục vụ công tác thanh tra, kiểm tra và có giải pháp hoàn thành kế hoạch thanh tra, kiểm tra năm 2019. Đối tượng thanh tra, kiểm tra tập trung vào các doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế, doanh nghiệp lớn nhiều năm chưa thực hiện thanh tra, kiểm tra, doanh nghiệp hoàn thuế lớn, hoặc các doanh nghiệp liên kết có rủi ro cao về giá chuyển nhượng...

Ngoài ra, cơ quan thuế các cấp cần theo dõi cập nhật kịp thời tình hình hoạt động của các doanh nghiệp; đặc biệt là các doanh nghiệp lớn. Đẩy mạnh công tác giám sát việc kê khai thuế của người nộp thuế để thu kịp thời các khoản thuế phát sinh phòng tránh việc kê khai thấp, không sát với thực tế hoặc chuyển sang kỳ kê khai tiếp thep làm ảnh hưởng đến số thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 08/11/2018 về việc chấn chỉnh, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong việc chấp hành pháp luật về ngân sách nhà nước. Các cán bộ, công chức quản lý thuế có trách nhiệm thực hiện nghiêm kỷ luật tài chính trong việc thực thi công vụ, phòng ngừa tham nhũng và không được gây khó khăn, phiền hà cho người nộp thuế.

Về công tác sắp xếp tinh gọn bộ máy ngành Thuế, Bộ trưởng yêu cầu: Tiếp tục thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của Tổng cục, Cục thuế, Chi cục thuế theo Quyết định số 41/2018/QĐ-TTg ngày 25/09/2018 của Thủ tướng Chính phủ về việc qui định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế. Việc hợp nhất các Chi cục thuế thành Chi cục thuế khu vực phải đảm bảo chặt chẽ, không ảnh hưởng đến nhiệm vụ chính trị được giao, đồng thời phải đảm bảo đoàn kết thống nhất trong toàn đơn vị.

Theo ông Nam, dự toán thu ngân sách năm 2019 của ngành thuế được Quốc hội, Chính phủ giao là 1.168.100 tỷ đồng. Với mục tiêu năm 2019 là năm tăng tốc, bứt phá, góp phần quan trọng hoàn thành kế hoạch 5 năm 2016-2020 theo chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Tổng cục Thuế tập trung, phấn đấu quyết liệt hoàn thành vượt mức 5% nhiệm vụ thu ngân sách nhà nước được giao.

Căn cứ nhiệm vụ thu NSNN của ngành thuế năm 2019 được Quốc hội giao tại Nghị quyết về mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và NSNN năm 2019, Chính phủ giao tại Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 01/01/2019 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán NSNN năm 2019, Bộ Tài chính đã giao nhiệm vụ cho ngành thuế: phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu năm 2019 vượt dự toán 5%, tất cả 63/63 địa phương hoàn thành 100% dự toán; thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp quản lý rủi ro tại trụ sở Người nộp thuế phấn đấu đạt tối thiểu 19% số doanh nghiệp trên địa bàn; công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đảm bảo số nợ thuế đến 31/12/2019 không vượt quá 5% tổng số thu ngân sách năm 2019;

 

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Ứng dụng CNTT hỗ trợ cá nhân nộp thuế qua mạng

Ứng dụng CNTT hỗ trợ cá nhân nộp thuế qua mạng

Để từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế, Tổng cục Thuế đang tiếp tục hoàn thiện, nâng cấp các ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) hướng đến việc hỗ trợ cá nhân khai, nộp thuế qua mạng.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Ứng dụng CNTT hỗ trợ cá nhân nộp thuế qua mạng

Hiện nay, Tổng cục Thuế đang triển khai ứng dụng khai thuế điện tử, nộp thuế điện tử đối với các hộ cho thuê tài sản, cá nhân nộp lệ phí trước bạ.

    Triển khai đúng tiến độ các dự án CNTT

    Thực hiện các Nghị quyết số 01, 02 và Chương trình hành động của Bộ Tài chính, Tổng cục Thuế đang tiếp tục cải cách thủ tục hành chính (TTHC) và hiện đại hóa công tác quản lý thuế. Nhiều ứng dụng CNTT đã được Tổng cục Thuế triển khai và áp dụng trong thực tế, qua đó đã mang lại nhiều thuận lợi cho cộng đồng doanh nghiệp (DN).

Ông Phạm Quang Toàn - Cục trưởng Cục CNTT (Tổng cục Thuế) cho biết, các ứng dụng CNTT như khai thuế qua mạng, nộp thuế, hoàn thuế điện tử đã đi vào hoạt động ổn định và mang lại rất nhiều tiện ích cho người nộp thuế. Ngoài các ứng dụng trên, Tổng cục Thuế đang triển khai nhiều ứng dụng điện tử khác, hướng đến cá nhân người nộp thuế. “Hiện nay Tổng cục Thuế đang triển khai theo đúng tiến độ các dự án CNTT, đặc biệt đã đẩy nhanh tiến độ triển khai và mở rộng thực hiện khai thuế qua mạng và nộp thuế điện tử, hóa đơn điện tử có mã xác thực của cơ quan thuế, triển khai hoàn thuế điện tử” - ông Toàn cho biết. 

Theo báo cáo của Tổng cục Thuế, hiện hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh, thành phố và 100% chi cục thuế trực thuộc. Tính đến hết tháng 8/2019 có 737.461 DN tham gia sử dụng dịch vụ khai thuế điện tử, đạt 99,86% trên tổng số DN đang hoạt động trên cả nước. Số lượng hồ sơ khai thuế điện tử từ ngày 1/1/2019 đến ngày 18/8/2019 là hơn 9 triệu.

    Về nộp thuế điện tử, hiện nay Tổng cục Thuế và 63 cục thuế địa phương đã hoàn thành kết nối với 51 ngân hàng thương mại để triển khai dịch vụ nộp thuế điện tử. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, Tổng cục Thuế đang tiếp tục tuyên truyền về lợi ích của việc nộp thuế điện tử và vận động DN tham gia sử dụng dịch vụ. Báo cáo cho thấy, đến hết tháng 8/2019 đã có 734.019 DN đăng ký nộp thuế điện tử với cơ quan thuế, đạt tỷ lệ 99,40%; số lượng DN hoàn thành đăng ký dịch vụ với ngân hàng là 726.946 DN, chiếm tỷ lệ 98,44% trên tổng số DN đang hoạt động. Số tiền thuế nộp thông qua phương thức điện tử (từ ngày 1/1/2019 đến ngày 18/8/2019, là 433.399 tỷ đồng.

    Phát triển các ứng dụng hỗ trợ cá nhân người nộp thuế

    Theo tìm hiểu của phóng viên TBTCVN, ngoài các ứng dụng CNTT phục vụ việc khai và nộp thuế đối với DN, hiện nay Tổng cục Thuế đang hướng đến việc đưa các ứng dụng CNTT phục vụ cá nhân người nộp thuế. Cụ thể, hiện Tổng cục Thuế đang triển khai dịch vụ khai, nộp thuế đất đai, hộ cá nhân cho thuê nhà bằng phương thức điện tử tại 46 cục thuế và các chi cục thuế trực thuộc, gồm các thành phố lớn như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng…

    Báo cáo của Tổng cục Thuế cho thấy, đến ngày 18/8/2019, số tài khoản đã đăng ký là 57.109 (trong đó, Cục Thuế Hà Nội 15.854 tài khoản; Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh 35.114 tài khoản; các cục thuế còn lại là 6.141 tài khoản). Số tờ khai đã gửi từ ngày 1/1/2019 đến 18/8/2019 là 78.612 tờ khai (trong đó, Cục Thuế Hà Nội là 18.767 tờ khai, Cục Thuế TP. Hồ Chí Minh là 54.857 tờ khai, các cục thuế còn lại là 4.988 tờ khai).

    Đại diện Tổng cục Thuế cho biết, đã kết nối dữ liệu thành công với 6 ngân hàng thương mại (Vietcombank, Vietinbank, Agribank, BIDV, MBBank, VPBank) để thực hiện nộp thuế đất đai, hộ cá nhân điện tử.

    Ngoài triển khai ứng dụng khai và nộp thuế qua mạng đối với hộ cá nhân cho thuê nhà, Tổng cục Thuế cũng đang triển khai thí điểm dịch vụ nộp lệ phí trước bạ ô tô, xe máy điện tử. Hiện tại, Tổng cục Thuế đang chờ Cục Cảnh sát giao thông (Bộ Công an) hoàn thiện, nâng cấp ứng dụng và các căn cứ pháp lý để tiếp tục triển khai thử nghiệm tại TP. Hồ Chí Minh.

    Được biết, từ nay đến cuối năm 2019, Tổng cục Thuế sẽ tiếp tục nâng cấp, hoàn thiện và hỗ trợ các cục thuế triển khai việc  khai nộp thuế điện tử đối với cá nhân cho thuê nhà; làm việc với Cục Đăng kiểm (Bộ Giao thông vận tải) để trao đổi dữ liệu điện tử thực hiện khai, nộp thuế điện tử đối với lệ phí trước bạ ô tô, xe máy. Bên cạnh đó, Tổng cục Thuế cũng sẽ tiếp tục chỉ đạo, hướng dẫn các cục thuế thực hiện Bảng giá tính lệ phí trước bạ đối với ô tô, xe máy, ban hành kèm theo Quyết định số 618/QĐ-BTC ngày 10/4/2019 và Quyết định số 1112/QĐ-BTC ngày 3/7/2019 về Bảng giá tính lệ phí trước bạ ô tô, xe máy điều chỉnh, bổ sung áp dụng từ quý III/2019.

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Chuẩn bị hợp nhất Chi cục Thuế khu vực đợt III năm 2019

Chuẩn bị hợp nhất Chi cục Thuế khu vực đợt III năm 2019

Ngày 17/9/2019, Tổng cục Thuế tổ chức họp triển khai các Quyết định của Bộ Tài chính về việc hợp nhất các Chi cục Thuế tại 35 Cục Thuế tỉnh, thành phố

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Hợp nhất chi cục thuế khu vực đợt 3 năm 2019

Dự họp có đồng chí Cao Anh Tuấn - Tổng cục Trưởng Tổng cục Thuế, các đồng chí trong ban lãnh đạo Tổng cục, đại điện một số Vụ, đơn vị thuộc Tổng cục,  Cục Trưởng của 35 Cục Thuế hợp nhất.

Tổng cục Trưởng Cao Anh Tuấn cho biết đây là đợt triển khai lần thứ 4 thực hiện hợp nhất Chi cục Thuế. Năm 2018, triển khai điểm thành lập Chi cục Thuế khu vực tại 6 địa phương: Quảng Ninh, Hải Dương, Yên Bái, Quảng Ngãi, Lâm Đồng và Cà Mau.Trong năm 2019 triển khai 02 đợt: Đợt I thực hiện tại 09 Cục Thuế: Hà Nam, Hưng Yên, Đà Nẵng, Đắk  Lắk, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Thái Nguyên, Thừa Thiên Huế để hợp nhất 54 Chi cục Thuế để thành lập 26 Chi cục Thuế khu vực, giảm 28 Chi cục Thuế; Đợt II thực hiện tại 16 Cục Thuế: Bắc Kạn, Hậu Giang, Khánh Hòa, Sơn La, Quảng Ngãi, An Giang, Điện Biên, Lâm Đồng, Hà Nội, Long An, Phú Thọ, Nghệ An, Phú Yên, Quảng Bình, Kon Tum, Tiền Giang để hợp nhất 106 Chi cục Thuế để thành lập 50 Chi cục Thuế khu vực, giảm 56 Chi cục Thuế.

Dự kiến triển khai đợt III năm 2019 lần nay sẽ thực hiện hợp nhất Chi cục Thuế tại 35 Cục Thuế và ban hành Quyết định hợp nhất chi cục Thuế khu vực đối với 35 Cục Thuế gồm: Quảng Ninh, Cà Mau, Hậu Giang, Thái Bình, Ninh Bình, Đắk Nông, Cao Bằng,  Quảng Trị, Thanh Hóa, Lai Châu, Bạc Liêu, Bắc Giang, Bình Định, Hòa Bình, Tuyên Quang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Phước, Hà Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Dương, Kiên Giang, Bắc Ninh, Đồng Tháp, Lào Cai, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Nam Định, Hải Phòng, Gia Lai  để thực hiện hợp nhất 207 Chi cục Thuế để thành lập 98 Chi cục Thuế khu vực, giảm 107 Chi cục Thuế.

Như vậy, qua các đợt sắp xếp, thành lập Chi cục Thuế khu vực, đến nay đã sắp xếp 401 Chi cục thuế trực thuộc 61 Cục Thuế để thành lập 190 Chi cục Thuế khu vực, giảm 211 Chi cục Thuế.

Tại cuộc họp, đại diện Vụ TCBB Tổng cục Thuế hướng dẫn các công việc yêu cầu các Cục Thuế lưu ý trong quá trình triển khai hợp nhất Chi cục Thuế.

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Kế hoạch áp thuế lên “bộ tứ” đại gia công nghệ?

Kế hoạch áp thuế lên “bộ tứ” đại gia công nghệ?

Kênh ABC của Australia vừa đăng bài viết của nhà báo Nassim Khadem về tranh cãi xung quanh việc áp thuế lên doanh thu bán hàng kỹ thuật số của các “đại gia” công nghệ.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Bộ tứ đại gia công nghệ

Tác giả cho biết Australia đang chờ các quốc gia khác hành động trước khi quyết định “nối gót” châu Âu trong việc áp thuế doanh thu đối với các công ty công nghệ.

GAFA là gì?

Thượng Viện Pháp ngày 11/07/2019 đã thông qua dự luật đánh thuế đối với các dịch vụ kỹ thuật số của các đại tập đoàn công nghệ quốc tế tại Pháp, gọi là luật thuế GAFA, từ ghép lấy tên của “bộ tứ” tập đoàn thống trị thế giới công nghệ hiện nay là Google, Apple, Facebook và Amazon.

Theo đó, Thượng viện Pháp đã phê chuẩn mức thuế 3% áp dụng cho doanh thu từ các mặt hàng dịch vụ kỹ thuật số được bán tại Pháp, do các công ty này có doanh thu cao hơn 25 triệu euro tại Pháp và 750 triệu euro trên toàn thế giới. 

Chính phủ Pháp cho rằng việc thu thuế là cần thiết, vì những “đại gia” công nghệ đa quốc gia này đã lựa chọn ghi nhận phần lớn lợi nhuận tại những quốc gia có mức thuế thấp, bất kể doanh thu được tạo ra ở đâu.

Thuế GAFA được áp dụng cho khoảng 30 công ty, trong đó phần lớn là các công ty công nghệ có trụ sở tại Mỹ. Thuế đã nộp sau đó được khấu trừ ngược lại vào thuế thu nhập doanh nghiệp tại Pháp. 

Đây là chính sách hồi tố với thời gian áp dụng được tính ngược trở lại bắt đầu từ đầu năm 2019. Bộ Tài chính Pháp ước tính doanh thu thuế sẽ tăng thêm 500 triệu euro mỗi năm.

Dư luận thế giới về GAFA

Tại Australia, các chuyên gia thuế từ lâu đã cảnh báo rằng nếu Canberra nối gót châu Âu, đơn phương đánh thuế các công ty nước ngoài, bao gồm các công ty đa quốc gia của Mỹ và Trung Quốc, thì những quốc gia này có thể sẽ tìm cách thu thêm thuế từ các đại gia khai thác mỏ của Australia.

Thủ tướng Australia Scott Morrison gần đây cho biết Chính phủ Liên bang đang có “những lo ngại về các đề xuất liên quan đến việc tăng thuế đánh vào giá bán và động thái này có tiềm năng dẫn đến hành động đánh thuế trả đũa đối với Australia”.

Mặc dù vậy, Bộ trưởng Ngân khố Josh Frydenberg cho biết Chính phủ Australia sẽ chờ một kế hoạch đa phương về cách tính thuế đối với nền kinh tế kỹ thuật số - được dẫn dắt bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) và G20 - trước khi đưa ra bất kỳ biện pháp nào.

Trong khi đó, luật về thuế GAFA của Pháp đã vấp phải sự chống đối của hầu như toàn bộ dư luận Mỹ. Tổng thống Donald Trump thậm chí đã viết lời đe dọa trong một bài viết cá nhân trên mạng xã hội twitter vào tháng 7/2019 rằng Mỹ sẽ trả đũa Pháp bằng cách áp thuế đối với mặt hàng rượu vang.

Tại Mỹ, Đại diện Thương mại Mỹ Robert Lighthizer cũng nói rằng Washington “rất quan tâm” đến động thái đánh thuế không công bằng của Pháp nhắm vào các công ty của nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Mỹ cũng đã đưa ra một cuộc điều tra 301 – tương tự cuộc điều tra dẫn đến thuế quan đối với Trung Quốc. Theo Mục 301 của Luật Thương mại, Washington có thể áp dụng các biện pháp trừng phạt thương mại, bao gồm thuế, đối với những quốc gia nước ngoài vi phạm hiệp định thương mại hoặc tham gia vào các hoạt động thương mại không công bằng khác.

Daniel Bunn, Giám đốc các dự án toàn cầu tại Tổ chức Sáng lập Thuế, đã nói trong một phiên điều trần trước Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ và các quan chức chính phủ khác vào tháng trước rằng việc Paris áp dụng thuế đối với các sản phẩm kỹ thuật số có thể dẫn tới việc đánh thuế hai lần, từ đó gây ra nhiều tranh chấp thuế và thương mại hơn nữa.

Giám đốc Bunn chia sẻ: “Đây là loại thuế đánh vào tổng doanh thu thay vì thu nhập, thuế này sẽ hoạt động giống như thuế quan và sẽ có sự phân biệt đối xử giữa các công ty trong và ngoài nước”.

Ông Bunn cảnh báo các công ty sẽ chuyển số thuế bị đánh thêm sang người tiêu dùng bằng cách định giá sản phẩm cao hơn và chính sách của Pháp sẽ tạo ra thêm sự không chắc chắn xung quanh các nỗ lực của OECD. 

Ông nói: “Sự không chắc chắn có thể dẫn đến việc trì hoãn các quyết định đầu tư và tạo ra lực cản đối với tăng trưởng kinh tế. Cuộc chiến thương mại hiện tại đã gây ra rất nhiều tốn kém cho người dân Mỹ và vụ việc này có thể trở nên ngày càng nguy hiểm hơn”.

Mặt trái của GAFA

Ngoài cuộc điều tra Mục 301, Mỹ cũng có thể áp dụng một biện pháp chưa từng được sử dụng và lần đầu tiên được ghi vào bộ luật của nước này trong những năm 1930. 

Mục 891 cho phép Mỹ đánh thuế gấp đôi đối với bất kỳ công ty nào của Pháp hay công dân Pháp, những người phải trả thuế tại Mỹ, nếu quốc gia nước ngoài đó đang khiến công dân hay doanh nghiệp Mỹ phải chịu thuế phân biệt đối xử.

Phần lớn các “gã khổng lồ” công nghệ Mỹ, bao gồm Amazon, Facebook, Google và các hiệp hội thương mại, đã xác nhận đây chính xác là những gì thuế của Pháp đã thực hiện.

Tại phiên điều trần tháng 8/2019, các đại gia công nghệ đã nêu chi tiết về cách tính thuế của Pháp và kết luận rằng không chỉ phân biệt đối xử, mà hình thức này còn gây hại cho việc cải cách thuế toàn cầu. Bên cạnh đó, động thái đơn phương của Pháp đã tạo ra nguy cơ và cũng có thể tạo ra những rào cản đối với thương mại, đồng thời cản trở tăng trưởng kinh tế.

Trong khi đó, “gã khổng lồ” công nghệ Amazon lập luận rằng thuế quan đã tạo ra thêm chi phí tuân thủ và chi phí kiểm toán, buộc các công ty phải chuyển khoản chi phí phát sinh thêm này sang người tiêu dùng.

Ngoài ra, vấn đề xác định những khoản thuế này cũng tạo ra nhiều khó khăn. Người đứng đầu chính sách thuế toàn cầu của Facebook Alan Lee đã phát biểu trong phiên điều trần rằng trong khi công ty – hiện có khoản 2 tỷ người dùng – tạo ra hơn 98% doanh thu toàn cầu bằng việc cung cấp quảng cáo cho người sử dụng. 

Tuy nhiên, để nắm bắt dữ liệu này tốn rất nhiều thời gian và trong khi thuế được áp dụng hồi tố, nó sẽ làm tăng chi phí kinh doanh và kiểm toán.

Giám đốc chính sách thuế quốc tế của Amazon Peter Hiltz cho biết hơn 10.000 doanh nghiệp có trụ sở tại Pháp đang bán hàng thông qua các cửa hàng trực tuyến của Amazon và công ty này đã thông báo cho họ một số khoản phí tăng 3% đối với hoạt động bán hàng tại trụ sở Amazon Pháp bắt đầu từ ngày 1/10.

Ông Hiltz nói: "GAFA làm tăng chi phí kinh doanh của các doanh nghiệp, buộc họ phải lựa chọn giữa việc tăng giá, giảm chi phí hoặc ngừng bán cho khách hàng Pháp".  

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Luật Quản lý thuế sửa đổi Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế

Luật Quản lý thuế sửa đổi Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính thuế

Luật Quản lý thuế (sửa đổi) số 38/2019/QH14 có nhiều điểm mới trên mọi lĩnh vực quản lý thuế. Trong đó, những quy định mới về các thủ tục hành chính thuế thể hiện rõ nét việc cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh cải cách nền hành chính để tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi, góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Quốc hội bấm nút thông qua luật quản lý thuế sữa đổi

Sửa đổi, bổ sung quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế

Một trong những điểm mới quan trọng nhất là việc bổ sung riêng một điều quy định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế (Điều 8). Theo đó, giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với người nộp thuế đủ điều kiện. Đồng thời, khẳng định nguyên tắc đã giao dịch điện tử thì không phải thực hiện các hình thức giao dịch khác, không phải sử dụng chứng từ giấy; quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế trong tổ chức hệ thống thông tin điện tử; bổ sung quyền của người nộp thuế được sử dụng chứng từ điện tử trong giao dịch với cơ quan quản lý thuế và các cơ quan, tổ chức có liên quan; bổ sung quy định thời hạn nộp hồ sơ thuế, chứng từ nộp thuế điện tử trong trường hợp gặp sự cố kỹ thuật… Quy định mới này giúp tận dụng tối đa thành tựu công nghệ thông tin hiện đại vào việc thực hiện các hồ sơ, thủ tục hành chính thuế. Từ đó, giúp giảm chi phí in ấn hồ sơ, chứng từ; giảm chi phí đi lại giao dịch; giảm chi phí lưu trữ hồ sơ giấy; đồng thời, lại đảm bảo các giao dịch về thủ tục thuế được nhanh chóng, thuận lợi và có thể giao dịch 24/24 giờ trong ngày và 7/7 ngày trong tuần.

Bổ sung quy định để làm rõ hơn các thủ tục về đăng ký thuế

Luật Quản lý thuế hiện hành mới chỉ quy định nguyên tắc về đối tượng, thời hạn, hồ sơ, địa điểm, thay đổi thông tin đăng ký thuế và cấp mã số thuế. Để tránh việc nhiều người hiểu đăng ký thuế chỉ là việc cấp mã số cho người nộp thuế, Luật Quản lý thuế mới đã quy định làm rõ việc đăng ký thuế bao gồm: đăng ký thuế lần đầu, đăng ký thay đổi thông tin đăng ký thuế, đăng ký tạm ngừng kinh doanh, đăng ký khôi phục tạm ngừng kinh doanh trước thời hạn đã thông báo, đăng ký chấm dứt hiệu lực mã số thuế, đăng ký khôi phục mã số thuế… Đồng thời, đã quy định để phân biệt rõ hai nhóm đối tượng đăng ký thuế trong các khâu trên theo nguyên tắc: (i) Người nộp thuế đăng ký thuế cùng với đăng ký kinh doanh thì thực hiện theo qui định pháp luật về đăng ký kinh doanh; (ii) Những trường hợp còn lại thì người nộp thuế đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan thuế, bao gồm các tổ chức cá nhân đăng ký thuế trực tiếp với cơ quan Thuế và các cá nhân làm công ăn lương ủy quyền đăng ký thuế qua cơ quan chi trả thu nhập.

Sửa đổi thời hạn nộp hồ sơ khai thuế

Luật Quản lý thuế mới có những thay đổi chủ yếu sau về thời hạn nộp hồ sơ khai thuế:

Một là, sửa đổi quy định về thời hạn khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân theo hướng kéo dài thêm 1 tháng so với hiện nay. Theo đó, thời hạn nộp tờ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế chậm nhất vào ngày cuối cùng của tháng thứ 4 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch. Theo quy định hiện hành, cá nhân có duy nhất một nguồn thu nhập thì thực hiện khấu trừ tại nguồn và uỷ quyền quyết toán qua tổ chức chi trả. Đối với cá nhân có từ hai nguồn thu nhập trở lên thì phải trực tiếp quyết toán với cơ quan thuế nếu có số thuế phải nộp thêm hoặc số thuế nộp thừa có đề nghị hoàn. Qua quá trình thực hiện đã phát sinh nhiều bất cập trong việc khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân, đặc biệt là do cá nhân thường không tự ghi chép đầy đủ thu nhập mà phụ thuộc vào thông tin cung cấp từ các cơ quan chi trả thu nhập nên thường xác định không chính xác hoặc không đầy đủ khi kê khai quyết toán thuế. Vì lẽ đó, việc kéo dài thêm 1 tháng thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế thu nhập cá nhân sẽ giúp người nộp thuế có thêm thời gian để tổng hợp thu nhập trong năm trước khi thực hiện quyết toán thuế, giảm thiểu rủi ro trong hoàn thuế thu nhập cá nhân.

Hai là, sửa đổi thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm (trừ trường hợp quyết toán thuế thu nhập cá nhân của cá nhân trực tiếp quyết toán thuế). Theo đó, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm được quy định chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ 3 kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính. Quy định mới này tuy về thực chất không kéo dài thêm hay cắt giảm đi so với quy định hiện hành, song dễ nhớ và dễ thực hiện hơn. Theo quy định hiện hành, thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế năm chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính. Điều này buộc người nộp thuế phải đếm thời gian để xác định thời hạn nộp hồ sơ nên có thể bị nhầm lẫn hoặc quên việc tính ngày của năm nhuận tháng hai trong trường hợp năm tính thuế là năm dương lịch.

Ba là, sửa đổi quy định về thứ tự thanh toán tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt để đảm bảo tính hiệu lực của pháp luật thuế (quyết định cưỡng chế nợ thuế, thông báo nợ thuế, quyết định xử lý vi phạm về thuế...) theo nguyên tắc các khoản có hạn nộp xa nhất được thanh toán trước, qua đó, tránh phát sinh tiền chậm nộp cho người nộp thuế.

Bốn là, theo quy định hiện hành, khi người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp bị sai sót, nhầm lẫn thì được khai bổ sung điều chỉnh nhưng trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế. Luật mới vẫn giữ ràng buộc “trước khi cơ quan thuế, cơ quan có thẩm quyền công bố quyết định thanh tra, kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế” song bổ sung thêm giới hạn việc khai bổ sung, điều chỉnh chỉ được thực hiện trong thời hạn 10 năm kể từ ngày hết thời hạn nộp hồ sơ khai thuế của kỳ tính thuế có sai, sót. Quy định này nhằm nâng cao trách nhiệm của người nộp thuế trong việc rà soát hồ sơ khai thuế khi xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế và cũng phù hợp với thời hạn truy thu thuế trong Luật Quản lý thuế.

Năm là, luật hóa trường hợp người nộp thuế khai bổ sung hồ sơ khai thuế sau thông quan phát sinh số thuế phải nộp tăng thêm hoặc cơ quan hải quan ấn định thuế sau thông quan, thì thời hạn nộp tiền thuế khai bổ sung, nộp tiền thuế ấn định được áp dụng theo thời hạn nộp thuế của tờ khai ban đầu. Quy định này giúp minh bạch hóa thủ tục nộp hồ sơ khai thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.

Sửa đổi, bổ sung một số thủ tục hành chính thuế khác

Luật Quản lý thuế hiện hành quy định hoàn theo các loại thuế như Luật thuế Luật thuế như xuất nhập khẩu, Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và các luật thuế khác. Trên thực tế việc quy định cụ thể hoàn thuế theo từng sắc thuế không bao quát hết các trường hợp hoàn theo các chính sách thuế và hoàn trả tiền nộp thừa. Để bảo đảm tính khái quát về trường hợp hoàn thuế, phù hợp với thực tế phát sinh, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) quy định hoàn thuế theo hai trường hợp được hoàn thuế: (i) Hoàn theo quy định của pháp luật về thuế (theo quy định của từng sắc thuế); và (ii) Hoàn trả tiền nộp thừa đối với trường hợp người nộp thuế có số tiền đã nộp ngân sách nhà nước lớn hơn số phải nộp ngân sách nhà nước.

Về xử lý vi phạm hành chính thuế, Luật Quản lý thuế (sửa đổi) bổ sung quy định người nộp thuế sử dụng hóa đơn bất hợp pháp hoặc sử dụng bất hợp pháp hóa đơn dẫn đến thiếu thuế, trốn thuế thì không xử phạt vi phạm hành chính về hóa đơn mà bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Quy định này tránh trường hợp người nộp thuế vừa bị xử phạt về thuế, vừa bị xử phạt về hóa đơn khi thực hiện một hành vi vi phạm về sử dụng hóa đơn bất hợp pháp.

Tóm lại, những quy định mới sửa đổi, bổ sung về quản lý thuế tập trung chủ yếu vào ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý thuế; bổ sung làm rõ hơn các thủ tục về đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế; khắc phục những vướng mắc trong quá trình thực thi các thủ tục thuế hiện hành và minh bạch hóa các quy định pháp luật thuế. Chắc chắn rằng, khi Luật Quản lý thuế (sửa đổi) có hiệu lực sẽ hỗ trợ người nộp thuế thực hiện các thủ tục thuế nhanh chóng, thuận tiện, giảm chi phí tuân thủ; tạo môi trường đầu tư và kinh doanh thuận lợi; góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển./.

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Điều hành NSNN chặt chẽ đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế

Điều hành NSNN chặt chẽ đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế

Trong 8 tháng năm 2019, thu ngân sách nhà nước (NSNN) duy trì tiến độ ổn định; Chi ngân sách được quản lý chặt chẽ, theo đúng dự toán và tiến độ triển khai thực hiện của các đơn vị sử dụng ngân sách, đáp ứng các yêu cầu đầu tư cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội, quản lý nhà nước, quốc phòng, an ninh, bảo đảm an sinh xã hội.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Điều hành ngân sách nhà nước chặt chẽ

Thu ngân sách 8 tháng tăng 12,4% so với cùng kỳ

Kể từ đầu năm tới nay, Bộ Tài chính đã chủ động triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thành các chương trình công tác đã đề ra. Trong đó, công tác quản lý, điều hành thu chi NSNN đạt những kết quả tích cực. Bộ Tài chính cho biết, cân đối NSNN 8 tháng năm 2019 tiếp tục có thặng dư. Cụ thể, tổng thu NSNN thực hiện tháng 8 ước đạt 100,4 nghìn tỷ đồng. Luỹ kế thu NSNN 8 tháng ước đạt 997,6 nghìn tỷ đồng, bằng 70,7% dự toán, tăng 12,4% so cùng kỳ năm 2018. Trong đó thu nội địa tháng 8 ước đạt 81,8 nghìn tỷ đồng. Luỹ kế thu nội địa 8 tháng ước đạt 808,8 nghìn tỷ đồng, bằng 68,9% dự toán, tăng 13,9% so cùng kỳ năm 2018 (đạt 64,6% dự toán, tăng 17,1%); Thu từ dầu thô tháng 8 ước đạt 4,6 nghìn tỷ đồng, trên cơ sở giá dầu thanh toán bình quân đạt khoảng 66 USD/thùng, sản lượng thanh toán ước đạt 1 triệu tấn. Lũy kế 8 tháng ước đạt 38,78 nghìn tỷ đồng, bằng 87% dự toán; Thu từ hoạt động xuất nhập khẩu tháng 8 ước đạt 26,5 nghìn tỷ đồng. Sau khi hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ 13,2 nghìn tỷ đồng, thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 13,3 nghìn tỷ đồng. Lũy kế thu 8 tháng đạt thu từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 147,2 nghìn tỷ đồng, bằng 77,8% dự toán, tăng 10,3% so cùng kỳ năm 2018, trên cơ sở tổng số thu thuế ước đạt 233,1 nghìn tỷ đồng, bằng 77,6% dự toán, tăng 15,7% so cùng kỳ năm 2018; Hoàn thuế giá trị gia tăng theo chế độ khoảng 85,9 nghìn tỷ đồng, bằng 77,2% dự toán.

Các nhiệm vụ chi ngân sách trong tháng 8 và 8 tháng năm 2019 được quản lý chặt chẽ, theo đúng dự toán. Tổng chi NSNN tháng 8 ước đạt 124,49 nghìn tỷ đồng, luỹ kế chi 8 tháng đạt 901,35 nghìn tỷ đồng, bằng 55,2% dự toán, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó chi đầu tư phát triển đạt 161,27 nghìn tỷ đồng, bằng 37,6% dự toán, giảm 8,8%; Chi trả nợ lãi đạt 76,76 nghìn tỷ đồng, bằng 61,5% dự toán, tăng 1,6%; Chi thường xuyên đạt 649,89 nghìn tỷ đồng, bằng 65% dự toán, tăng 5,8% so với cùng kỳ năm 2018.

Bộ Tài chính cũng đã chủ động điều hành việc phát hành Trái phiếu Chính phủ để vừa sử dụng có hiệu quả ngân quỹ nhà nước, vừa đảm bảo nguồn thanh toán, chi trả kịp thời các khoản nợ gốc đến hạn và góp phần định hướng sự phát triển của thị trường, cơ cấu lại nợ công. Tổng số đã phát hành được 152 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn bình quân là 13,48 năm, lãi suất bình quân là 4,89%/năm.

Thực hiện gần 316 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra

Báo cáo của Bộ Tài chính cho biết lũy kế 8 tháng đầu năm 2019, toàn ngành Tài chính đã thực hiện 315.954 cuộc thanh tra, kiểm tra, xử phạt vi phạm hành chính hơn 2.406 tỷ đồng; Số tiền đã thu nộp NSNN hơn 7.046 tỷ đồng.

Tính đến hết tháng 8 năm 2019, cơ quan Thuế đã thực hiện kiểm tra gần 280 nghìn hồ sơ khai thuế và tiến hành 55,7 nghìn cuộc thanh tra, kiểm tra thuế tại doanh nghiệp, trên cơ sở đó kiến nghị xử lý khoảng 32,7 nghìn tỷ đồng, trong đó yêu cầu nộp vào NSNN 8,92 nghìn tỷ đồng (số thực nộp đến nay 5,74 nghìn tỷ đồng), giảm khấu trừ gần 1,4 nghìn tỷ đồng, giảm lỗ 22,39 nghìn tỷ đồng.

Về công tác phòng chống gian lận thương mại, hàng giả, lũy kế từ ngày 16/12/2018 đến 15/8/2019, toàn ngành Hải quan đã chủ trì, phối hợp, phát hiện, bắt giữ tổng 11.640 vụ việc vi phạm trong lĩnh vực hải quan, trị giá hàng hóa vi phạm ước tính gần 2.036 tỷ đồng, số thu NSNN đạt hơn 212 tỷ đồng; Cơ quan Hải quan đã ban hành 26 quyết định khởi tố, chuyển cơ quan khác kiến nghị khởi tố 65 vụ.

Đối với công tác về quản lý tài chính doanh nghiệp và cổ phần hóa, thoái vốn doanh nghiệp nhà nước; trong 8 tháng đầu năm, Bộ Tài chính đã tích cực phối hợp các bộ, ngành và địa phương tập trung rà soát, đánh giá việc thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Công tác quản lý giá, thị trường, Bộ Tài chính đã phối hợp chặt chẽ với các Bộ, cơ quan chức năng liên quan triển khai thực hiện có hiệu quả các biện pháp quản lý, điều hành giá cả hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu Nhà nước quản lý giá (dịch vụ y tế, dịch vụ giáo dục, điện, xăng dầu) nhằm kiểm soát tốt các yếu tố hình thành giá và mặt bằng giá cả thị trường, ngăn ngừa việc tăng giá đột biến, bất hợp lý; Tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát chặt chẽ việc chấp hành pháp luật về giá, thẩm định giá, hoạt động đăng ký, kê khai giá của doanh nghiệp. Chủ động có giải pháp xử lý kịp thời các mặt hàng biến động mạnh về giá theo chu kỳ mùa vụ (như: dịch vụ giáo dục khi bước vào năm học mới, mặt hàng bánh kẹo khi bước vào mùa trung thu...). Qua đó, góp phần giữ ổn định giá cả hàng hóa, dịch vụ trong nước...

Đôn đốc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm những tháng cuối năm

Từ nay tới cuối năm, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục chủ động triển triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp đã được đặt ra trong Kế hoạch hành động của Bộ Tài chính tại Quyết định số 89/QĐ-BTC ngày 08/01/2019 và Quyết định số 90/QĐ-BTC ngày 08/01/2019 nhằm triển khai Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 01/02/2019 của Chính phủ.

Theo đó, trong tháng 9, Bộ Tài chính sẽ tiếp tục chỉ đạo các đơn vị Thuế, Hải quan các tỉnh, thành phố tập trung triển khai thực hiện nhiệm vụ thu NSNN, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra; xử lý, thu hồi nợ đọng thuế; Tổ chức điều hành ngân quỹ, đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả của NSNN và các đơn vị giao dịch với KBNN; Tiếp tục phối hợp với Bộ Công an xây dựng cơ sở dữ liệu vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông, kết nối và trao đổi dữ liệu với KBNN, NHTM để trao đổi thông tin, dữ liệu điện tử và tạo thuận lợi cho người nộp phạt... Bộ tài chính cũng sẽ tham gia với Bộ KH&ĐT thẩm định nguồn vốn các dự án được hỗ trợ vốn từ nguồn dự phòng 10% của địa phương và dự phòng chung trung hạn 2016-2020; Tổng hợp báo cáo giải ngân tháng 9 gửi Thủ tướng Chính phủ theo quy định, Tổng hợp kế hoạch vốn đầu tư phát triển, kế hoạch vốn NSNN năm 2019 của Bộ, ngành; Hoàn thiện dữ liệu tổng hợp báo cáo kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016-2020 và kế hoạch hàng năm...

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Quyết liệt các giải pháp, phấn đấu thu ngân sách vượt dự toán

Quyết liệt các giải pháp, phấn đấu thu ngân sách vượt dự toán

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng vừa ban hành chỉ thị tăng cường công tác thu ngân sách, trong đó yêu cầu cơ quan thuế các cấp thực hiện quyết liệt quản lý thu, khai thác nguồn thu, chống thất thu để hoàn thành vượt mức nhiệm vụ được giao.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

bộ trưởng Đinh Tiến Dũng

Bộ trưởng Bộ Tài chính vừa ban hành Chỉ thị số 01/CT-BTC về tăng cường công tác thu ngân sách phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu ngân sách và nhiệm vụ công tác quản lý thuế năm 2019.

Hầu hết các khoản thu, sắc thuế đều tăng trưởng khá

Trong 8 tháng năm 2019, toàn ngành Thuế đã nỗ lực tập trung triển khai và hoàn thành toàn diện các nhiệm vụ quản lý thu với kết quả thu ngân sách nhà nước (NSNN) ước đạt 814.186 tỷ đồng, bằng 69,7% so với dự toán pháp lệnh, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm 2018.

Nhìn chung, tốc độ thu 8 tháng năm 2019 đạt khá, chủ yếu do phát sinh đột biến một số nguồn tăng thu khoảng 19.500 tỷ đồng. Trong đó, hầu hết các khoản thu, sắc thuế đều có số thu tăng trưởng so với năm 2018; có nhiều khoản thu, sắc thuế đạt khá.

Tuy nhiên, không chủ quan trước những kết quả đạt được, chỉ thị nhận định: Những tháng cuối năm, công tác quản lý thuế gặp một số khó khăn, thách thức như: bối cảnh tình hình thế giới phức tạp, chiến tranh thương mại gia tăng, giá dầu giảm nhanh, thất thường và khó dự báo; giải ngân vốn đầu tư công chậm; thiên tai, bão lũ liên tiếp xảy ra… đã và đang có ảnh hưởng nhất định đến tình hình kinh tế trong nước.

Theo Bộ Tài chính, số thu những tháng gần đây bắt đầu xuất hiện dấu hiệu chững lại. Công tác thanh tra, kiểm tra còn hạn chế về bố trí nguồn lực cán bộ. Số tiền nợ thuế không thu hồi được tăng…

Căn cứ nhiệm vụ thu NSNN của ngành Thuế năm 2019 được Quốc hội giao, Bộ Tài chính cũng đã giao nhiệm vụ cho ngành Thuế phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ thu năm 2019 vượt dự toán 5%, tất cả 63/63 địa phương hoàn thành 100% dự toán.

Đồng thời, ngành Thuế thực hiện thanh tra, kiểm tra thuế theo phương pháp quản lý rủi ro tại trụ sở người nộp thuế phấn đấu tối thiểu đạt 19% số doanh nghiệp (DN) trên địa bàn. Công tác quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế đảm bảo số nợ thuế đến 31/12/2019 không vượt quá 5% tổng thu ngân sách.

Kiên định mục tiêu thu thuế vượt 5% dự toán

Để đảm bảo ngành Thuế hoàn thành nhiệm vụ được giao, giúp Chính phủ chủ động trong điều hành nhiệm vụ thu - chi năm 2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu các đơn vị trong hệ thống thuế quản lý đối tượng thu, theo dõi sát tiến độ thu, kịp thời triển khai các giải pháp quản lý thu, khai thác tăng thu; thường xuyên đánh giá kết quả, tiến độ thực hiện, giải quyết các vướng mắc trong quá trình quản lý, nhằm hoàn thành vượt mức dự toán được giao.

Đồng thời, toàn ngành tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ thị của Bộ Tài chính tăng cường quản lý nợ và cưỡng chế thu hồi nợ thuế; thực hiện quyết liệt các biện pháp đôn đốc thu hồi nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế theo đúng quy định; tăng cường đôn đốc xử lý nợ chây ỳ, áp dụng các biện pháp cưỡng chế nợ, công khai thông tin nợ thuế, phối hợp với chính quyền địa phương thành lập các đội liên ngành rà soát thu hồi nợ đọng thuế, thu triệt để các khoản nợ mới phát sinh trong năm 2019.

Tại chỉ thị, Bộ trưởng Bộ Tài chính yêu cầu các đơn vị trong hệ thống thuế tăng cường kiểm soát việc thanh tra, kiểm tra thuế trong đơn vị theo từng tuần, tháng, quý. Đối tượng thanh, kiểm tra tập trung vào DN có rủi ro cao về thuế, DN lớn nhiều năm chưa thanh, kiểm tra, DN hoàn thuế lớn hoặc các DN liên kết có rủi ro cao về giá chuyển nhượng.

Người đứng đầu ngành Tài chính cũng yêu cầu ngành Thuế phải theo dõi cập nhật kịp thời tình hình hoạt động của các DN, đặc biệt là các DN lớn. Đồng thời, cơ quan thuế các cấp đẩy mạnh giám sát việc kê khai thuế của người nộp thuế, thu kịp thời các khoản thuế phát sinh, phòng tránh việc kê khai thấp, không sát với thực tế hoặc chuyển sang kỳ kê khai tiếp theo làm ảnh hưởng đến số thu nộp ngân sách.

Ngoài các giải pháp nêu trên, Bộ trưởng Bộ Tài chính đề nghị các đơn vị trong hệ thống thuế thực hiện kịp thời kiến nghị các kết luận của Thanh tra Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước; phối hợp với cơ quan quản lý ở địa phương rà soát thu nộp tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuê mặt nước, đảm bảo thực hiện thu đầy đủ, kịp thời về ngân sách.

Việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương chấp hành pháp luật về NSNN và trong thực thi công vụ, không gây phiền hà cho người nộp thuế; tiếp tục sắp xếp tổ chức, bộ máy, hợp nhất các chi cục thuế thành chi cục khu vực phải đảm bảo chặt chẽ, không ảnh hưởng đến nhiệm vụ được giao… cũng là những nhiệm vụ trọng tâm của ngành Thuế từ nay đến cuối năm được Bộ trưởng chỉ đạo tại văn bản này.

Tại cuộc họp sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai nhiệm vụ cuối năm của ngành Tài chính, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đã đề nghị toàn ngành Tài chính tập trung phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính – NSNN đề ra, trong đó có nhiệm vụ thu ngân sách, phải phấn đấu thu đạt và vượt 5% dự toán đề ra.

Được biết, dự toán thu NSNN năm 2019 được Quốc hội, Chính phủ giao cho ngành Thuế là hơn 1,1 triệu tỷ đồng./

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Tổng cục Thuế hướng dẫn hoàn thuế với hàng tái xuất trả lại chủ hàng

Tổng cục Thuế hướng dẫn hoàn thuế với hàng tái xuất trả lại chủ hàng

Tổng cục Thuế vừa có văn bản trả lời Công ty CP UIL Việt Nam về việc hướng dẫn người nộp thuế, hoàn, khấu trừ thuế GTGT cho tờ khai xuất khẩu với hàng tái xuất trả lại chủ hàng rõ ràng, chính xác, nhanh chóng, bảo đảm thực hiện đúng luật thuế hiện hành.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

hoàn thuế với hàng tái xuất trả lại chủ

Theo đó, Công ty CP UIL Việt Nam (Bắc Ninh) nhập khẩu hàng hóa phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh (đã nộp đầy đủ thuế nhập khẩu và thuế GTGT) nhưng do hàng hóa không đủ chất lượng nên Công ty đã xuất trả lại chủ hàng nước ngoài.

Tuy nhiên, khi hoàn thuế GTGT hàng tái xuất (hàng không đạt chất lượng), hiện đang có các cách hiểu chưa thống nhất giữa cơ quan thuế địa phương với cơ quan hải quan khi xử lý hoàn thuế GTGT với các tờ khai xuất khẩu đã đăng ký từ ngày 1/7/2016 đến trước ngày 1/2/2018. Công ty CP UIL Việt Nam chưa nhận được trả lời rõ ràng về việc thực hiện hoàn thuế, khấu trừ thuế GTGT của hàng nhập khẩu sau đó trả lại chủ hàng tại cơ quan nào.

Trả lời về trương hợp này, Tổng cục Thuế cho biết, theo Điểm a, Khoản 1, Điều 49 Thông tư số 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính quy định về tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa thì tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu được coi là nộp thừa trong các trường hợp sau:

Người nộp thuế có số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt đã nộp lớn hơn số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải nộp (bao gồm cả thuế GTGT đã nộp đối với hàng hóa đã nhập khẩu nhưng tái xuất trả lại chủ hàng nước ngoài hoặc tái xuất sang nước thứ ba hoặc tái xuất vào khu phi thuế quan.

Hàng hóa đã xuất khẩu nhưng nhập khẩu trở lại Việt Nam.

Hàng hóa nhập khẩu để sản xuất hàng hóa xuất khẩu đã nộp thuế GTGT theo quy định, sau đó đã thực tế xuất khẩu sản phẩm) đối với từng loại thuế trong thời hạn 10 năm kể từ ngày nộp tiền vào ngân sách Nhà nước thì được bù trừ số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa với số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ, kể cả việc bù trừ giữa các loại thuế với nhau; Hoặc trừ vào số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt phải nộp của lần nộp thuế tiếp theo; Hoặc trường hợp hoàn trả số tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt nộp thừa khi người nộp thuế không còn nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt; Trừ trường hợp không được miễn xử phạt do đã thực hiện quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế của cơ quan quản lý thuế hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định tại Khoản 2, Điều 111 Luật Quản lý thuế”.

Căn cứ quy định trên, trường hợp người nộp thuế đã nộp tiền thuế GTGT đối với hàng hóa đã nhập khẩu nhưng tái xuất trả lại chủ hàng nước ngoài thì đề nghị liên hệ với cơ quan hải quan để được hướng dẫn thực hiện.

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Tiếp tục giảm 97 Chi cục Thuế

Tiếp tục giảm 97 Chi cục Thuế

Ngày 04/9/2019, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã tiếp tục phê duyệt Đề án sắp xếp, hợp nhất Chi cục Thuế tại 32 Cục Thuế và ban hành Quyết định hợp nhất chi cục Thuế khu vực đối với 32 Cục Thuế tỉnh, thành phố.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

tiếp tục cắt giảm 97 chi cục thuế

32 Cục Thuế đươc sắp xếp, hợp nhất gồm: Quảng Ninh, Cà Mau, Hậu Giang, Thái Bình, Ninh Bình, Đắk Nông, Cao Bằng, Quảng Trị, Thanh Hóa, Lai Châu, Bạc Liêu, Bắc Giang, Bình Định, Hòa Bình, Tuyên Quang, Trà Vinh, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bến Tre, Bình Phước, Hà Giang, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Dương, Kiên Giang, Bắc Ninh, Đồng Tháp, Lào Cai Đồng Nai, Tây Ninh và Bình Thuận để thực hiện hợp nhất 184 Chi cục Thuế để thành lập 87 Chi cục Thuế khu vực, giảm 97 Chi cục Thuế.

Trước đó, thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung ương và Chương trình hành động của Chính phủ “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực hiệu quả”, quyết định số 520/QĐ-BTC ngày 13/4/2018 của Bộ trưởng Bộ Tài chính “Về việc phê duyệt Kế hoạch sắp xếp, sáp nhập Chi cục Thuế quận, huyện, thị xã, thành phố thành Chi cục Thuế khu vực”; từ đầu năm 2019 đến nay, ngành Thuế đã thực hiện 02 đợt sắp xếp đối với 25 tỉnh, thành phố, trong đó:

Đợt I/2019: gồm có 09 Cục Thuế (Đà Nẵng, Đắk Lắk, Hà Nam, Hưng Yên, Lạng Sơn, Ninh Thuận, Sóc Trăng, Thái Nguyên và Thừa Thiên Huế); Theo đó, thực hiện sắp xếp, hợp nhất 54 Chi cục Thuế để thành lập 26 Chi cục Thuế khu vực trực thuộc 09 Cục Thuế tỉnh, thành phố nêu trên (giảm 28 Chi cục Thuế).

Đợt II/2019: gồm có 16 Cục Thuế (An Giang, Bắc Kạn, Điện Biên, Hà Nội, Hậu Giang, Khánh Hòa, Sơn La, Quảng Ngãi, Long An, Phú Thọ, Quảng Bình, Kon Tum, Tiền Giang, Phú Yên, Nghệ An và Lâm Đồng); Theo đó, thực hiện sắp xếp, hợp nhất 106 Chi cục Thuế để thành lập 50 Chi cục Thuế khu vực trực thuộc 16 Cục Thuế tỉnh, thành phố nêu trên (giảm 56 Chi cục Thuế).

Sau hai đợt sắp xếp đã thực hiện hợp nhất được 194 Chi cục Thuế cấp huyện để thành lập 92 Chi cục Thuế khu vực trực thuộc 29 Cục Thuế tỉnh, thành phố (giảm 102 Chi cục Thuế).

Với việc Bộ trưởng Bộ Tài chính đã tiếp tục phê duyệt Đề án sắp xếp, hợp nhất Chi cục Thuế tại 32 Cục Thuế và ban hành Quyết định hợp nhất chi cục Thuế khu vực đối với 32 Cục Thuế tỉnh, thành phố như đã nêu, tính đến thời điểm hiện nay, ngành Thuế đã sắp xếp 378 Chi cục Thuế trực thuộc 58 Cục Thuế để thành lập 179 Chi cục Thuế khu vực, giảm 199 Chi cục Thuế. Đã có 16 Cục Thuế hoàn thành Đề án sắp xếp, hợp nhất để thành lập Chi cục Thuế khu vực cả giai đoạn 2018-2020 theo chỉ đạo của Bộ Tài chính tại Quyết định số 520.

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Người nộp thuế được chuyển vị thế cao hơn

Người nộp thuế được chuyển vị thế cao hơn

Đó là nhận định của ông Hà Huy Phong, Giám đốc Công ty luật TNHH Inteco (Đoàn Luật sư TP Hà Nội) về các quy định liên quan đến các quyền của người nộp thuế được quy định trong Luật Quản lý thuế sửa đổi.

>>>Xem thêm  DỊCH VỤ THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP TẠI ĐÀ NẴNG<<<

người nộp thuế ở vị thế cao hơn

Với nhiều điểm mới được quy định trong nội dung, ông đánh giá như thế nào về tầm quan trọng của Luật Quản lý thuế vừa được Quốc hội thông qua?

Qua nghiên cứu tôi nhận thấy, Luật Quản lý thuế sửa đổi có nhiều điểm mới, trong đó tập trung vào một số điểm chính như: kéo dài thời hạn nộp hồ sơ quyết toán thuế TNCN; mở rộng quyền của người nộp thuế. Bên cạnh đó, lần đầu tiên Luật quy định cụ thể về quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử; bổ sung chức năng cung cấp dịch vụ kế toán cho đại lý thuế; siết chặt quản lý hoạt động chuyển giá; bắt buộc tổ chức, cá nhân sử dụng hóa đơn điện tử từ ngày 1/7/2022; quy định cụ thể các trường hợp được xóa tiền nợ thuế, tiền phạt, chậm nộp; các vấn đề về trách nhiệm phối hợp giữa cơ quan thuế và tổ chức, đơn vị khác trong hoạt động quản lý thuế. 

Đặc biệt, cá nhân tôi đánh giá cao Luật Quản lý thuế sửa đổi lần này, bởi một số lý do có tính pháp lý cao. Thứ nhất, Luật Quản lý thuế sửa đổi đã kịp thời cập nhật các quy định mới có tính thực tế cao hơn, phù hợp với tình hình thực tiễn của DN, người nộp thuế. Theo đó, những phản ảnh, góp ý từ phía DN và người nộp thuế đã được ngành thuế ghi nhận một cách tích cực. 

Thứ hai, Luật đã kịp thời cập nhật sự thay đổi và phát triển của xã hội, của nền kinh tế và sự xuất hiện của những vấn đề mới trong cách thức phân phối hàng hóa; những lĩnh vực kinh doanh mà trước đây không có, hoặc sự xuất hiện của những thủ thuật gây xói mòn thuế, mà trước đó chưa được phòng ngừa trong văn bản về quản lý thuế (như chuyển giá trong quá trình đầu tư, chuyển giá trong quá trình sản xuất kinh doanh). Việc luật hóa các quy định điều chỉnh sẽ là hành lang pháp lý để ngành thuế và các cơ quan thực thi pháp luật xử lý các vấn đề thực tiễn tốt hơn, tránh thất thu thuế, đảm bảo sự công bằng giữa các nhà đầu tư, giữa các DN trong và ngoài nước, tạo môi trường đầu tư và kinh doanh bình đẳng, minh bạch.

Thứ ba, Luật đã tiến thêm một bước dài trong việc thay đổi vị trí của người nộp thuế, trong đó vai trò và vị trí của người nộp thuế được đặt ở tầm cao hơn, được coi trọng hơn. Mặc dù, nộp thuế là nghĩa vụ của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào có phát sinh thu nhập chịu thuế theo quy định. Tuy nhiên, không vì thế mà cơ quan thuế có quyền áp đặt, đưa ra biện pháp quản lý có tính một chiều, thiếu coi trọng. Về mặt nguyên tắc, công dân, các tổ chức, cá nhân trong xã hội mới là chủ thể quản lý xã hội, chứ không phải cơ quan nhà nước. Do vậy, việc sửa đổi này của Luật là sự chuyển biến tích cực để phù hợp hơn với các nguyên tắc và chính sách mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.

Một trong những điểm mới quan trọng của Luật Quản lý thuế sửa đổi đó là lần đầu tiên đã có những quy định cụ thể về những hành vi bị cấm trong quản lý thuế. Dưới góc độ luật pháp, ông đánh giá như thế nào về những quy định này?

Luật Quản lý thuế sửa đổi đã quy định rõ các hành vi bị nghiêm cấm trong quản lý thuế như: thông đồng, móc nối, bao che giữa người nộp thuế và công chức, cơ quan quản lý thuế để chuyển giá, trốn thuế; gây phiền hà, sách nhiễu đối với người nộp thuế; lợi dụng để chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép tiền thuế; cố tình không kê khai hoặc kê khai thuế không đầy đủ, kịp thời, chính xác về số tiền thuế phải nộp.

Với những quy định này, nhìn ở góc độ lập pháp sẽ có những cung bậc khác nhau đối với các hành vi của tổ chức, cá nhân mà pháp luật cho phép, không cho phép hoặc cho phép có điều kiện. Nếu là hành vi bị cấm, thì tuyệt đối không được làm, dù trong bất kì hoàn cảnh nào. Còn những hành vi không bị cấm, nhưng có thể chịu sự hạn chế bởi những điều kiện nhất định sẽ được quy định trong những văn bản hướng dẫn cụ thể. Do đó, việc Luật Quản lý thuế sửa đổi đưa ra những điều cấm sẽ làm hành lang pháp lý quan trọng cho những văn bản hướng dẫn thi hành. Đó là sự khẳng định dứt khoát và mạnh mẽ của Nhà nước đối với những hành vi không thể cho phép.

Bên cạnh những quy định liên quan đến nghĩa vụ, trách nhiệm, Luật cũng đã có các quy định tăng quyền cho người nộp thuế. Theo ông, điều này sẽ tạo điều kiện gì cho người nộp thuế trong thực hiện các nghĩa vụ đối với NSNN?

Điều 16 của Luật Quản lý thuế sửa đổi quy định rõ những quyền của người nộp thuế như: có quyền được hỗ trợ, hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung cấp thông tin, tài liệu để thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi về thuế; nhận văn bản liên quan đến nghĩa vụ thuế của các cơ quan chức năng khi tiến hành thanh tra, kiểm toán, kiểm tra. Bên cạnh đó, người nộp thuế được yêu cầu cơ quan quản lý thuế giải thích về việc tính thuế, ấn định thuế; được giữ bí mật thông tin, trừ các thông tin phải cung cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc thông tin công khai về thuế theo quy định của pháp luật; hưởng các ưu đãi về thuế, hoàn thuế theo quy định.

Những nội dung này rất quan trọng và có ý nghĩa, bởi đã thay đổi tâm thế và vị trí của người nộp thuế. Với các nghĩa vụ mà Nhà nước đã quy định, thì người nộp thuế phải tuân theo, nhưng nếu ở vị trí và tâm thế của người nộp thuế tốt hơn, sẽ tránh được sự áp đặt và nhũng nhiễu từ một số cán bộ thuế thiếu trách nhiệm, cũng như thay đổi tâm tư, tình cảm, giúp người nộp thuế cảm nhận được vị trí và trách nhiệm của mình đối với xã hôi, với Nhà nước. Nếu người nộp thuế tin tưởng cơ quan quản lý, thì sẽ tự giác hơn trong việc nộp thuế, giảm hiện tượng trốn tránh nghĩa vụ thuế.  Hiện nay, sự khác biệt vẫn còn tồn tại giữa thu ngân sách trên sổ sách và thu trên thực tế, do đó nếu tiền thuế được nộp vào ngân sách ổn định và kịp thời hơn, thì Nhà nước sẽ chủ động hơn trong các kế hoạch chi tiêu.

Ông kỳ vọng như thế nào về tác động của Luật Quản lý thuế mới tới công tác quản lý thuế, DN và người nộp thuế khi Luật đi vào cuộc sống?

Tôi tin tưởng rằng, Luật Quản lý thuế mới ra đời và đi vào cuộc sống sẽ làm thay đổi một phần cách thức hành xử và làm việc giữa cơ quan quản lý thuế với người nộp thuế; tăng cường năng lực của cơ quan thuế; cải thiện niềm tin và sự hợp tác giữa người nộp thuế và cơ quan quản lý thuế. Qua đó, sẽ tăng cường tính minh bạch trong hoạt động quản lý Nhà nước.

Xin cảm ơn ông!

thành lập công ty tại đà nẵng, dịch vụ thành lập công ty tại đà nẵng, thủ tục thành lập công ty

Image

ĐÀ NẴNG

Địa chỉ: 41 Phan Triêm, Phường Hòa Xuân, Quận Cẩm Lệ, Thành phố Đà Nẵng
Điện thoại: 0236.3.707404
HOTLINE: 0915.888.404
Email: info@dng.vn
Website: danangnet.vn

HỒ CHÍ MINH

Địa chỉ: Tầng 7, Tòa nhà HP, 60 Nguyễn Văn Thủ, Đakao, Quận 1, Hồ Chí Minh.
Điện thoại: 02822446739
Mobile: 0915.888.404
Email: info@hcm.com.vn
Website: hcm.com.vn

HÀ NỘI

Địa chỉ: Tòa nhà Anh Minh, 36 Hoàng Cầu, p. Ô Chợ Dừa, Đống Đa, Hà Nội.
Điện thoại: 02422612929
HOTLINE: 0915.888.404
Email: info@hno.vn 
Website: hno.vn

 

GỌI NGAY

0915.888.404