Nâng cao chất lượng kế toán, kiểm toán đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Trong đó, hội nhập về lĩnh vực kế toán, kiểm toán được đặt ra là nhiệm vụ trọng tâm trong tiến trình hội nhập, để phát triển mạnh về lĩnh vực này thì cần phải đổi mới đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam. Dưới góc nhìn từ cơ sở đào tạo về kế toán, PGS. TS Mai Ngọc Anh Trưởng khoa Kế toán – Học viện Tài chính đã có những chia sẻ với Cổng TTĐT Bộ Tài chính về nội dung này.

>>>Xem thêm  THÀNH LẬP CÔNG TY TẠI ĐÀ NẴNG<<<

? Ông có thể đưa ra cái nhìn tổng quan về đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam hiện nay, thưa ông?

PGS. TS Mai Ngọc Anh: Để có cái nhìn tổng quan về đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam tôi sẽ phân tích trên 4 các khía cạnh:

Thứ nhất, về hệ thống đào tạo kế toán, kiểm toán: Đào tạo kế toán đã có lịch sử phát triển hơn 60 năm ở Việt Nam. Một số trường cơ sở đào tạo có truyền thống đào tạo về kế toán phải kể đến là Học viện Tài chính (Trường Đại học Tài chính Kế toán Hà Nội trước đây); Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Kinh tế TP HCM… bao gồm các bậc đào tạo từ đại học và sau đại học. Đào tạo hệ trung cấp, cao đẳng về kế toán cũng được thực hiện ở nhiều cơ sở đào tạo trên phạm vi cả nước. Cho đến nay, đã có 223 tổ chức cấp bằng cao đẳng về kế toán, 126 tổ chức cấp bằng đại học, 18 tổ chức cấp bằng thạc sĩ và 5 tổ chức cấp bằng tiến sỹ về kế toán. Hàng năm, có từ 50.000 đến 60.000 sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học ngành kế toán ra trường, tham gia vào thị trường lao động trong nước và quốc tế về lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Bên cạnh đó, số học viên được cấp bằng thạc sỹ chuyên ngành kế toán cũng khoảng trên 3.000 học viên.

Ngoài ra, các loại hình đào tạo khác về kế toán, kiểm toán cũng có sự phát triển mạnh trong thời gian gần đây để đáp ứng nhu cầu đào tạo lại, đào tạo cấp chứng chỉ chuyên môn, đào tạo bồi dưỡng. Các chương trình đào tạo này cũng rất đa dạng được xây dựng trên cơ sở các quy định pháp lý về kế toán và theo nhu cầu của người học. Các cơ sở chủ yếu cung cấp loại hình đào tạo này bao gồm: các trường đại học, cao đẳng, các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán (VAA, VACPA) và các công ty dịch vụ kế toán, kiểm toán. Ước tính hàng năm có hàng trăm ngàn lượt người được đào tạo cập nhật, bồi dưỡng, nâng cao trình độ về kế toán, kiểm toán.

Cùng với đó, đào tạo kiểm toán viên và kế toán viên hành nghề đã được Bộ tài chính chủ trì tổ chức thực hiện hơn 15 năm qua, đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán. Trong những năm gần đây, đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam còn có sự tham gia tích cực của các tổ chức nghề nghiệp kế toán được thừa nhận trên phạm vi quốc tế như ACCA, ICAEW, CP Úc, CIMA,…

Thứ hai, quan điểm đào tạo kế toán kiểm toán ở các cơ sở đào tạo hiện nay: Mặc dù chưa có đánh giá, phân loại một cách chính thức, tuy nhiên, các cơ sở có đào tạo ngành kế toán ở Việt Nam hiện nay được chia thành 2 khuynh hướng: đào tạo kế toán định hướng hàn lâm/nghiên cứu (Học viện Tài chính; Đại học KTQD; Đại học Kinh tế TPHCM...) và đào tạo cử nhân kế toán định hướng thực hành (các trường đại học mới đào tạo ngành kế toán: Đại học Công nghiệp Hà Nội, Đại học Kinh tế - Kĩ thuật CN, Đại học Quản lý KD và CN...). Việc lựa chọn định hướng đào tạo chi phối mạnh đến nhận thức, chủ trương, xác định mục tiêu, phương pháp tổ chức đào tạo và đặc biệt là chương trình đào tạo ngành kế toán.

Thứ ba, cách tiếp cận và công nghệ đào tạo: Dù đã có nhiều chuyển biến tích cực trong thời gian qua, tuy nhiên, thực tế là cách tiếp cận đào tạo kế toán ở các cơ sở đào tạo của Việt Nam vẫn thiên về đào tạo “kĩ thuật” theo hướng tuân thủ các quy định của chế độ kế toán, kiểm toán đặc biệt là quá coi trọng việc đào tạo các kĩ thuật hạch toán, ghi sổ. Việc đào tạo các nguyên tắc/chuẩn mực kế toán, kiểm toán đã được một số trường tiếp cận song chưa mang tính phổ biến.

Thứ tư, nguồn lực cho đào tạo kế toán, kiểm toán: Nguồn nhân lực giảng viên đào tạo ngành kế toán, kiểm toán đã được các cơ sở đào tạo xây dựng trong thời gian qua, bao gồm các giảng viên được đào tạo bài bản ở trình độ đại học và trên đại học tại các nước phát triển và các giảng viên được đào tạo theo các chương trình đại học/trên đại học trong nước, nước ngoài hoặc được đào tạo theo chương trình của các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế. Nguồn lực đầu tư về cơ sở vật chất của các cơ sở đào tạo còn khá hạn chế, hệ thống học liệu hiện đại còn tương đối nghèo nàn.

? Theo ông nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam hiện nay như thế nào? Với nguồn nhân lực đó liệu đã đáp ứng được yêu cầu, chất lượng kế toán, kiểm toán trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập mạnh mẽ như hiện nay hay không?

PGS. TS Mai Ngọc Anh: Nguồn nhân lực kế toán kiểm toán Việt Nam đông về số lượng. Ước tính trong hơn 600 ngàn doanh nghiệp, hàng trăm ngàn đơn vị hành chính, sự nghiệp hoạt động trong nền kinh tế hiện nay, có hàng triệu người trực tiếp tham gia vào công tác kế toán, kiểm toán. Nhân lực kế toán kiểm toán Việt Nam đều được đào tạo ở các cấp độ khác nhau. Trong thời gian gần đây, chủ yếu được đào tạo ở bậc cao đẳng hoặc đại học.

Chất lượng nền tảng của nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam khá tốt. Hàng năm, kết quả tuyển sinh của các trường đại học, cao đẳng trên toàn quốc, điểm trúng tuyển của các ngành đào tạo kế toán, kiểm toán đều ở mức khá cao so với các ngành đào tạo về kinh tế khác. Bên cạnh việc được đào tạo nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo chính thức, người làm kế toán, kiểm toán Việt Nam đều rất tích cực tham gia các chương trình đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến thức, nâng cao trình độ. Trong thời gian gần đây, với sự hoạt động có hiệu quả của các Hiệp hội nghề nghiệp kế toán, kiểm toán, tính cộng đồng, kết nối của cộng đồng những người làm kế toán, kiểm toán Việt Nam đã được cải thiện đáng kể. Xu hướng phát triển nghề nghiệp của cộng đồng người làm kế toán đã ngày càng rõ nét hơn thông qua việc người làm kế toán tiếp tục học tập và đào tạo để có được các chứng chỉ hành nghề kế toán, kiểm toán trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam cũng có những hạn chế nhất định như: Kiến thức và tư duy của người làm kế toán chủ yếu mang tính nghiệp vụ và tuân thủ, tính chủ động, sáng tạo và độc lập về chuyên môn của người làm kế toán, kiểm toán còn hạn chế; Ngoài ra, tác phong làm việc và tư duy làm việc còn chưa thực sự chuyên nghiệp, một bộ phận không nhỏ người làm kế toán có tư duy an phận, ít nỗ lực trong phấn đấu về chuyên môn và phát triển sự nghiệp. Năng lực hội nhập của cộng đồng người làm kế toán, kiểm toán dù đã có cải thiện đáng kể trong những năm gần đây, song nhìn chung còn yếu, chưa sẵn sàng tham gia vào thị trường lao động và dịch vụ trong khu vực và trên phạm vi toàn cầu; Tinh thần khởi nghiệp trong lĩnh vực kế toán kiểm toán đã được khơi gợi trong thời gian qua song vẫn còn hạn chế. Số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ kế toán, kiểm toán còn rất nhỏ bé.

? Ông có khuyến nghị gì đối với việc đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam hiện nay nhằm đáp ứng các yêu cầu trong bối cảnh mới?

PGS. TS Mai Ngọc Anh: Theo tôi đánh giá, đổi mới đào tạo nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam bao hàm những cơ hội tốt đồng thời đặt ra nhiều thách thức. Trên cơ sở phân tích các cơ hội và thách thức đó, tôi có một số khuyến nghị như sau:

Thứ nhất, xây dựng khung năng lực quốc gia về kế toán, kiểm toán

Như đã phân tích, hiện Việt Nam chưa có khung năng lực quốc gia về nghề nghiệp kế toán, kiểm toán. Nghề nghiệp kế toán kiểm toán có khung năng lực trải rộng từ cấp độ cơ bản cho đến nâng cao, chuyên nghiệp. Việc xây dựng và công bố khung năng lực quốc gia về nghề kế toán, kiểm toán sẽ định hướng cho hoạt động đào tạo của các cơ sở đào tạo cũng như sự phát triển chuyên môn của mỗi cá nhân người làm kế toán, kiểm toán, qua đó giúp nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán phát triển một cách có định hướng rõ ràng. Khung năng lực quốc gia về kế toán, kiểm toán cần được xây dựng theo hướng phù hợp với khung năng lực nghề nghiệp toàn cầu (có thể tham chiếu khung năng lực nghề kế toán, kiểm toán của Liên đoàn kế toán quốc tế IFAC hoặc các tổ chức nghề nghiệp có uy tín toàn cầu) và đảm bảo thích ứng với tác động của cách mạng công nghiệp 4.0.

Thứ hai, quy hoạch lại hệ thống đào tạo kế toán, kiểm toán

Hiện tại, hệ thống đào tạo kế toán kiểm toán Việt Nam khá đa dạng song còn chồng chéo về mục tiêu, quan điểm đào tạo. Trên cơ sở khung năng lực quốc gia về đào tạo nguồn nhân lực, mạng lưới các cơ sở đào tạo kế toán, kiểm toán cần được quy hoạch lại theo hướng phân tầng đào tạo, xác định rõ phân khúc thị trường nguồn nhân lực phù hợp.

Các cơ sở đào là các trường đại học cao đẳng tập trung đào tạo cơ bản mang tính nền tảng. Trong đó, các cơ sở đào tạo chuyên sâu có truyền thống và kinh nghiệm, năng lực đào tạo tốt định hướng đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, hướng tới xây dựng nguồn nhân lực chuyên nghiệp, có khả năng hội nhập cao, sẵn sàng cho lộ trình áp dụng hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế ở Việt Nam và thích ứng cao với tác động của cách mạng công nghiệp 4.0.

Các cơ sở đào tạo không chuyên sâu hướng đến đào tạo nguồn nhân lực kế toán đáp ứng nhu cầu cho khối các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các dịch vụ kế toán cơ bản.

Các cơ sở đào tạo khác, trong đó, đặc biệt là vài trò của các tổ chức nghề nghiệp tổ chức các hoạt động đào tạo bồi dưỡng, cập nhật, nâng cao năng lực cho nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán, đào tạo phát triển chuyên môn theo hướng chuyên nghiệp. Từng bước và có lộ trình phù hợp để các tổ chức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán tổ chức đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ kế toán viên, kiểm toán viên cho phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ ba, đổi mới quan điểm, nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo kế toán, kiểm toán

Tôi cho rằng một trong những rào cản quan trọng đối với tiến trình hội nhập và phát triển nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán Việt Nam là do quan điểm đào tạo kế toán, kiểm toán khá lạc hậu. Hệ thống đào tạo quá tập trung vào kĩ thuật nghiệp vụ. Do vậy, quan điểm đào tạo của các cơ sở đào tạo cần được đổi mới căn bản theo hướng chú trọng hơn đến tư duy tổng hợp, kĩ năng xử lý công việc chuyên nghiệp, kĩ năng tổng hợp, phân tích và quản trị dữ liệu. Đặc biệt, cần tăng cường đào tạo ngoại ngữ và kĩ năng sử dụng ngoại ngữ trong chuyên môn kế toán, kiểm toán đảm bảo khả năng hội nhập cao của nguồn nhân lực. Đổi mới quan điểm đào tạo sẽ chi phối tới việc xây dựng nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo cũng như chính sách đầu tư nguồn lực giảng viên, nguồn lực cơ sở vật chất cho hoạt động đào tạo.

Thứ tư, tăng cường liên kết trong hoạt động đào tạo

Trên cơ sở xây dựng mạng lưới các cơ sở đào tạo kế toán, kiểm toán, cần tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa các cơ sở đào tạo, giữa các cơ sở đào tạo với các đơn vị sử dụng lao động. Sự phối hợp giữa các cơ sở đào tạo cần gắn chặt với lộ trình phát triển chuyên môn của nguồn nhân lực kế toán, kiểm toán từ đó phối hợp thiết kế nội dung, chương trình phù hợp, đảm bảo có tính kế thừa, liên thông kiến thức, kĩ năng chuyên môn giữa đào tạo tại các trường cao đẳng, đại học với đào tạo bồi dưỡng, cập nhật, đào tạo theo các chứng chỉ nghề nghiệp của các tổ chức nghề nghiệp trong và ngoài nước.

Thứ năm, quan tâm đến đào tạo nhận thức của xã hội về kế toán, kiểm toán

Hạch toán nói chung và kế toán nói riêng là cần thiết đối với mọi chủ thể kinh tế. Do vậy, việc đào tạo kế toán không chỉ quan trọng đối với những người làm nghề kế toán chuyên nghiệp mà cần đặt ra như việc đảm bảo nhận thức cơ bản của xã hội, đặc biệt đối với các cá nhân, các hộ gia đình có thực hiện các hoạt động kinh tế; các nhà quản lý doanh nghiệp. Tư duy kế toán, kiểm toán phải trở thành tư duy nền tảng của quản lý, quản trị. Người có tư duy kế toán, kiểm toán có khả năng thành công cao trong phát triển nghề nghiệp ở nhiều lĩnh vực, đặc biệt là quản lý. Một khi nhận thức của xã hội về kế toán, kiểm toán được đầy đủ, vị thế, vai trò của kế toán, kiểm toán ngày càng được đề cao và phát huy. Từ cơ sở đó, công tác đào tạo nguồn nhân lực chuyên nghiệp về kế toán, kiểm toán sẽ nhận được sự quan tâm thỏa đáng, tạo tiền đề cho việc đổi mới và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này.

Xin cảm ơn ông!

thành lập công ty tại đà nẵngdịch vụ thành lập công ty tại đà nẵngthủ tục thành lập công ty