Đà tăng trưởng của Việt Nam chậm lại, nhưng triển vọng vẫn tích cực

Ông Ousmane Dione - Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới (WB) tại Việt Nam đã nhận định như vậy trong buổi công bố báo cáo "Điểm lại cập nhật tình hình phát triển kinh tế Việt Nam" ngày 1/7 tại Hà Nội.

>>>Xem thêm  THÀNH LẬP CÔNG TY TẠI ĐÀ NẴNG<<<

Theo đánh giá WB, việc môi trường kinh tế bên ngoài trở nên xấu đi gần đây đã khiến đà tăng trưởng của Việt Nam đã chậm lại trong những tháng đầu năm 2019. Cụ thể, tốc độ tăng trưởng GDP theo giá so sánh tuy vẫn đạt ở mức đáng khích lệ 6,8% trong quý I/2019, nhưng đà tăng đã chậm lại đáng kể so với mức 7,5% trong quý I/2018 và 7,1% trong cả năm 2018. Nguyên do là sản lượng nông nghiệp giảm tốc trong điều kiện dịch tả lơn châu Phi và giá cả quốc tế suy giảm; nhu cầu bên ngoài yếu đi khiến cho tăng trưởng giảm đà ở các ngành chế tạo, chế biến định hướng xuất khẩu cũng như hoạt động xuất khẩu nói chung, cho dù Việt Nam dường như được hưởng lợi về chuyển hướng thương mại khi căng thẳng thương mại hiện nay giữa Trung Quốc và Mỹ.

Ngoài ra, đầu tư trong nước cũng giảm do tín dụng tăng thấp và giải ngân đầu tư công chậm một phần vì các nỗ lực củng cố ngân sách. Cạnh đó, các chỉ báo kinh tế vĩ mô quan trọng khác như tín dụng chậm lại, lạm phát ở mức thấp và giá trị nhập khẩu giảm tốc… phần nào ngầm định về tình trạng hoạt động kinh tế đang chậm lại theo tính chu kỳ.

Tuy nhiên, báo cáo của WB cũng chỉ ra những điểm sáng với nền kinh tế Việt Nam, như ngành dịch vụ vẫn duy trì được đà tăng cao nhờ tiêu dùng cá nhân tiếp tục khởi sắc; chỉ số giá tiêu dùng chung có tăng nhẹ trong vài tháng qua, nhưng áp lực lạm phát dự báo vẫn ở mức vừa phải do tăng trưởng tín dụng có phần chững lại. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước vẫn duy trì chính sách tiền tệ cẩn trọng để hỗ trợ mục tiêu kép, vừa duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, vừa hỗ trợ tăng trưởng kinh tế chung. Tăng trưởng tín dụng ước tính khoảng 13% (so cùng kỳ năm trước) vào tháng 3/2019 phản ánh chính sách tiền tệ thận trọng nhằm kiểm soát tín dụng. Hơn nữa, kỷ cương ngân sách được duy trì giúp cho tỷ lệ nợ công trên GDP tiếp tục giảm. Cụ thể, theo ước tính của Bộ Tài chính, tỷ lệ nợ công so với GDP đã giảm từ mức đỉnh là 63,7% năm 2016 xuống khoảng 58,4% năm 2019 và vẫn tiếp tục theo hướng giảm thấp hơn so với mức trần nợ luật định 65%. Chính phủ đã tận dụng điều kiện thuận lợi trên thị trường trong nước, lòng tin của nhà đầu tư tăng lên và lợi xuất trái phiếu giảm thấp để tiếp tục chuyển đổi sang các công cụ nợ có kỳ hạn dài hơn, đồng thời giảm lãi vay bình quân.

Những chỉ số trên cho thấy, triển vọng kinh tế Việt Nam vẫn được đánh giá theo hướng tích cực, cho dù đã xuất hiện các dấu hiệu giảm sút mang tính chu kỳ. Tăng trưởng GDP trong năm 2019 theo giá so sánh được dự báo sẽ giảm còn 6,6%, do sức cầu bên ngoài yếu đi,chính sách tài khóa và tín dụng tiếp tục bị thắt chặt. Bên cạnh đó, với bối cảnh lạm phát cơ bản được dự báo ở mức thấp, các điều chỉnh giá do nhà nước quản lý (điện nước, y tế, giáo dục) cũng như tác động của dịch tả lợn châu Phi tới giá lương thực phẩm ước tính sẽ không làm tăng chỉ số giá tiêu dùng chung vượt quá mức mục tiêu 4% của Chính phủ. Tăng trưởng xuất khẩu theo dự báo vẫn thấp hơn so với tiềm năng của quốc gia, do môi trường bên ngoài yếu đi, nhưng tài khoản vãng lai được cho rằng vẫn thặng dư trong năm 2019, tuy ở mức nhỏ hơn so với 2018.

Mặc dù vậy, WB cũng cảnh báo, căng thẳng thương mại toàn cầu tiếp tục leo thang, tình hình địa chính trị trong khu vực và trên toàn cầu ngày càng bất định, điều kiện huy động vốn trên toàn cầu bị thắt lại..., có thể gây xáo trộn về thương mại và tài chính, dẫn đến kết quả tăng trưởng giảm xuống. Những rủi ro bên ngoài nêu trên kết hợp với nguy cơ dễ tổn thương trong nước, bao gồm cả khả năng chậm trễ trong củng cố tình hình tài khóa, cải cách DNNN và khu vực ngân hàng, có thể ảnh hưởng xấu đến cảm nhận của nhà đầu tư và triển vọng tăng trưởng.

Trước viễn cảnh trên, ông Ousmane Dione khuyến nghị, Việt Nam cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng để có thể điều chỉnh hợp lý chính sách kinh tế vĩ mô trong trường hợp các rủi ro tiếp tục gia tăng dẫn tới nguy cơ suy giảm các hoạt động kinh tế. Ngoài ra, Việt Nam cũng cần tiếp tục cải cách cơ cấu bao gồm đổi mới khuôn khổ pháp lý, điều hành, cải cách DNNN và hệ thống ngân hàng là hết sức quan trọng nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư ngắn hạn cũng như cải thiện tiềm năng tăng trưởng đầu tư trung hạn.

Báo cáo cũng khuyến nghị, các cấp có thẩm quyền cần tập trung ổn định nguồn thu và nâng cao hiệu suất chi tiêu để hỗ trợ bền vững tài khóa. Để xử lý tình trạng bất định và căng thẳng thương mại toàn cầu ngày càng tăng, các nhà hoạch định chính sách cần tập trung tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, tiếp tục tăng cường chiều sâu hội nhập thương mại qua các hiệp định song phương và khu vực, chẳng hạn như Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định hợp tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mới được thông qua.

Minh Đức